Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013 by Lý Tưởng Người Việt
CAUHOITôi đơn giản chỉ là người lính tầm thường, nhưng thủy chung sống với cái "motto" ở quân trường: TỔ QUỐC – DANH DỰ – TRÁCH NHIỆM. Khi quốc gia bị nạn ngoại xâm thì cầm súng chống giặc để gìn giữ biên cương và bảo vệ nền độc lập; khi giã từ quân ngũ thì sử dụng ngòi bút làm vũ khíđể chống lại sự bất công và bênh vực kẻ bị đàn áp. Tôi cương quyết theo đuổi con đường đó cho tới hơi thở cuối cùng, bất chấp hệ lụy, vì nghĩ rằng đó là nghĩa vụ làm người. (Xin cảm ơn nhà phát minh Internet và chủ các trang mạng đã giúp cho tiếng nói của tôi được dịp đóng góp với đồng bào quốc nội trong cuộc đấu tranh vì quyền con người). Bắc Việt du nhập vào đất nước một chủ nghĩa phi nhân và đi xin vũ khí của ngoại bang để thôn tính Miền Nam dưới chiêu bài thống nhất, nên chúng tôi cần có sự trợ giúp phương tiện của nước khác để kháng cự, chứ không phải là lính đánh thuê! Giả thiết rằng Miền Nam chiến thắng Miền Bắc mà thi hành chính sách trả thù người thua trận thì tôi cũng chống!

Dù ở phía thua trận, nhưng tôi vững tin Miền Nam chưa thua cuộc, bởi vì Miền Nam có chính nghĩa. Mà chính nghĩa thì bao giờ cũng thắng! Vấn đề là thời gian. Nói tóm lại, năm 1975, cộng sản thắng những trận đánh, nhưng thua cuộc chiến tranh (They won the battles, but they lost the war). Như Tôn Tử nói: "Hạ được thành, đoạt được đất, nhưng không chiếm được lòng người là thất bại". Đúng thế! Miền Bắc không giải phóng Miền Nam như họ rêu rao. Họ thống trị Miền Nam còn ác hơn Thực dân xâm lược. Bộ mặt xảo trá của cộng sản không còn đánh lừa được ai. Cho nên nhạc sĩ Nhật Ngân, bạn học của Lê Hiếu Đằng, đã sáng tác bài nhạc có tựa đề "Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh?" (Bài hát này do ca sĩ Ngọc Minh thường hát khi mới đặt chân đến bến bờ tự do). Ngay cả Bộ trưởng Trương Như Tảng trong cái gọi là Chính phủ Lâm thời Miền Nam cũng vượt biên tìm tự do là dấu hiệu mở đầu Miền Nam đang thắng cuộc. Do đó, tôi đề nghị nhà báo Huy Đức trong lần tái bản tác phẩm của ông nên đổi lại là "Bên Thắng Trận", chứ không phải là "Bên Thắng Cuộc".

Vừa rồi, tôi viết bài "Căn bệnh khủng hoảng trí tuệ" là ý nói đến những nhà trí thức có bằng cấp to, địa vị lớn, nhưng lùn về trí tuệ vì vô tình hay hữu ý đứng về phía đảng tội ác, khiến cho xứ sở lâm vào cảnh điêu đứng như ngày hôm nay. Tôi tuyệt nhiên không xúc phạm người bị khuyết tật chậm trí khôn bẩm sinh, "down syndrome symptoms". Người có giáo dục và có lòng nhân không bao giờ lấy sự khuyết tật của người khác làm đề tài chế giễu. "Lé, lùn, thọt" là ngoại hình, không phải là cái xấu. Cái xấu là sự bất lương, gian xảo, lưu manh và vô nhân cách!

Trí thức được đánh giá là người thông tuệ nhìn xa trông rộng, lương thiện, có nhân cách. Họ là bộ óc của đất nước nhằm vạch ra con đường đưa dân tộc thoát ra khỏi sự ngu dốt, nghèo đói để tiến đến nền văn minh, có văn hoá và nhân bản. Ai nấy đều kính trọng người trí thức như bậc thầy, vì họ là tài nguyên quý báu bậc nhất quốc gia. Do thanh danh cao cả đó, người trí thức dù muốn cũng không dám làm giàu bất chính, nghèo nhưng không hèn và không bị bạo lực khuất phục. Người trí thức không uốn mình trước cường quyền để hưởng lợi cá nhân.

Thông qua lịch sử, chúng ta thấy rõ Hồ Chí Minh chọn con đường cộng sản không nhằm mục đích giải phóng dân tộc, mà vì bộ máy cai trị cộng sản phù hợp với bản chất của ông ta: tàn ác, man rợ, gian trá, lừa đảo giống như các lãnh tụ Staline, Mao Trạch Đông mà ông tôn thờ. Lãnh tụ cộng sản còn khủng khiếp hơn bạo chúa thời phong kiến: Muốn đày đọa ai là đày đọa; muốn cưỡng dâm ai là cưỡng dâm, muốn giết ai là giết, muốn xa hoa đến thế nào thì đều có kẻ xu nịnh phục vụ. Chúng chỉ cần chụp cái mũ phản động, âm mưu lật đổ "Nhà Nước Cách Mạng" lên đầu kẻ nào phản kháng, chống đối là xong!

Không ai có thể phủ nhận lòng yêu nước của các nhà trí thức đã lên đường kháng chiến chống Thực dân Pháp vào năm 1945. Nhưng khi cái tổ chức mình dấn thân tham gia đề ra chủ trương "trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ" mà vẫn nhắm mắt phục vụ thì người ta phải nghi ngờ khả năng nhận thức của họ. Vì có học, họ không dốt, nhưng họ ngu vì đồng lõa với CÁI ÁC.

Ông bà ta đã dạy: "Bần cùng sinh đạo tặc", "Đói thì đầu gối phải bò", "Dân giàu thì nước mạnh". Hồ Chí Minh chủ trương bần cùng hóa nhân dân thì không thể làm cho nước mạnh, mà chỉ làm cho người dân vì bản năng sinh tồn phải trở thành đạo tặc và mất nhân cách (vì phải bò). Cái Đảng chủ trương bao cấp, tức phân phát miếng ăn cho dân, là biện pháp dùng bao tử kiểm soát tư tưởng thì nhân dân chỉ là một đàn súc vật ngoan ngoãn. Đâu cần phải là người học rộng, xuất thân từ các trường lớn ở ngoại quốc mới thấy con đường "Xã hội chủ nghĩa" kiểu Hồ Chí Minh là tội ác chống dân tộc? Nhóm nhà văn trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như cụ Phan Khôi là một trong những người thấy trước Việt Nam sẽ đi vào vòng nô lệ nước Tầu. Khi cụ Phan Khôi viết "chè Tàu", "thịt kho Tàu" đều bị cấp trên phê bình và bảo phải sửa là "chè Trung Quốc", "thịt kho Trung Quốc". Đến khi cụ dịch "pomme de terre" là "khoai nhạc ngựa" thì bị đảng chê cụ già nua lẩm cẩm, tại sao không dịch là "khoai Tây". Cụ giải thích: Bởi vì người Tàu dịch khoai tây là "mã linh thư" (tức là nhạc ngựa). Điều đó chứng tỏ lãnh đạo Miền Bắc buộc người dân không được phép xúc phạm Trung quốc, tức là đã sợ Tàu từ dạo đó chứ không phải bọn lãnh đạo ngày nay vì tha hóa mà trở nên "hèn với giặc, ác với dân". Tinh thần nô lệ đến cỡ đó thì sao nước không mất được?

Tôi tin rằng bất cứ học sinh, sinh viên nào ở Miền Nam đã đọc cuốn "Trăm Hoa …" của cụ Hoàng văn Chí thì không thể nào đi theo cộng sản được. Bởi vì người đọc sẽ thấy sự tồi bại, nịnh hót, tàn ác của cái bọn gọi là lãnh đạo văn hóa. Ví dụ như Tố Hữu và Xuân Diệu:

Hoan hô Hồ Chí Minh
Cây hải đăng vô sản
Bão táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ cách mạng
Hoan hô Sít-ta-lin
Đời đời cây đại thọ
Rợp bóng mát hoà bình.


Hoặc là:

Chúng ta có Bác Hồ
Thế giới: Sít-ta-lin
Đảng ta phải mạnh to
Thế giới phải đỏ mình.


Ở một chỗ khác, thi sĩ khát máu hô:

Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin... bất diệt!


Đó là thơ của Tố Hữu, người nịnh bợ ngoại bang số 1; còn sau đây là thơ của Xuân Diệu:

Mỗi lần đấu tranh gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm,
Nghe lời Bác dạy khuyên răn,
Chúng con ước muốn theo chân của Người...
Chúng con thề nguyện một lời:
Quyết tâm thành khẩn...
lột người từ đây.


Đó là thơ Xuân Diệu nịnh Bác; còn sau đây là lời Xuân Diệu nạt nhân dân. Ta hãy nghe lời hò hét:

Anh em ơi! Quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi...


Dưới thời Thực dân Pháp, Xuân Diệu đã làm những bài thơ trữ tình rất người, được độc giả yêu chuộng. Chỉ vì sống dưới chế độ cộng sản thì Xuân Diệu trở thành một kẻ nịnh hót vô nhân cách. Nhân đây, tôi xin kể một mẩu chuyện nhỏ về Xuân Diệu: "Sau 30 tháng 4 năm 1975, Xuân Diệu vào Nam gặp gỡ một số văn nghệ sĩ Miền Nam bị kẹt lại. Thi sĩ P.N. (bạn tôi yêu cầu dấu tên) thấy Xuân Diệu mỗi lần "độc tấu" thơ của Hồ Chí Minh đều rút khăn tay trong túi ra lau nước mắt, P.N. hỏi: "Tại sao anh cứ phải khóc như thế?". Xuân Diệu đáp: "Tôi phải giả bộ khóc như thế thì sau khi trình diễn xong, Đảng mới phát cho lạng thịt bò!". Còn nhà văn Nguyễn Tuân, một con người khinh bạc mà phải thú nhận với bạn bè một câu rất thảm hại: "Tao sống được đến ngày hôm nay là nhờ tao biết … sợ!" Nếu Xuân Diệu, Nguyễn Tuân di cư vào Miền Nam năm 1954 thì đâu đến nỗi mất nhân cách và sắt máu như thế? Trái lại họ sẽ được trọng vọng nữa là đàng khác! Nếu nhạc sĩ Phạm Duy cứ ở mãi với Việt Minh, không tìm đường về với tự do thì làm sao có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ? Câu hỏi đặt ra: "Ai đã làm những trí thức tầm cỡ như những nhà văn tên tuổi một thời trở nên mất nhân cách, nếu không phải là chế độ chuyên chính vô sản do Hồ Chí Minh và tập đoàn thống trị?

Thạc sĩ Hoàng Xuân Nhị, một nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê, học ở ngoại quốc về không tranh luận nổi với học trò mình, sinh viên Bùi Quang Đoài, thì nhờ Đảng "cất" đi người học trò bất hạnh đó ở một nơi bí mật (thủ tiêu?), không ai biết số phận nạn nhân ra sao, còn sống hay đã chết? Nếu cộng sản vỗ ngực khoe chủ nghĩa Marx-Lénine là vô địch thì thừa lý lẽ để tranh luận, đối thoại; chứ sao khi bị đuối lý thì chụp cho người ta cái mũ "phản động"?

Hồ Chí Minh và tập đoàn cai trị dùng sự khủng bố, gieo rắc sự sợ hãi khiến cho nhân dân cả nước bị mất nhân cách vì phải im lặng trước sự bất công, sai trái. Cuối cùng, chính Hồ Chí Minh cũng trở thành người mất nhân cách! Nếu ai đã từng đọc tác phẩm "Viết cho Mẹ và Quốc hội" của Nguyễn văn Trấn thì sẽ biết bọn chuyên quyền Lê Duẩn, Lê Đức Thọ khống chế "Bác" mà "Bác" phải ngồi im, không dám bênh vực đàn em bị kết tội oan. Bởi vì suốt một đời hoạt động của nhà "Kách mệnh" chuyên môn làm những điều khuất tất, mờ ám nên bị đàn em nắm con bài tẩy. Do đó, "Bác" rất sợ đàn em tiết lộ thâm cung bí sử thì danh giá vị "Cha Già Dân Tộc" mà "Bác" vô cùng mơ ước sẽ trở thành bãi phân.

Ông Nguyễn Trọng Vĩnh viết bài "Từ Đảng Cộng sản ban đầu đến Đảng Cộng sản hiện nay" đăng trên trang mạng Boxitevn như sau:

"Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lòng tin của nhân dân thì làm gì có trận thắng Điện Biên Phủ "Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" giải phóng nửa nước? Tuy có sai lầm trong cải cách ruộng đất, Tổng bí thư Trường Chinh từ chức, Bác Hồ xin lỗi dân, và sửa sai, dân lại tín nhiệm Đảng và theo Đảng.

Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Lao động ViệtNam và Bác Hồ được dân tin thì sao có thể đánh thắng đế quốc Mỹ hiện đại, giàu mạnh hơn ta gấp nhiều lần, thực hiện được hoàn toàn độc lập thống nhất. Uy tín của Việt Nam rất cao, được thế giới khâm phục".

Vì trọng người cao tuổi, tôi đã viết cho Tướng Vĩnh một bức thư với lời lẽ nhã nhặn, lịch sự để chứng minh bằng sự kiện lịch sử cho ông thấy rằng Hồ Chí Minh là kẻ có tội đối với dân tộc Việt Nam, là người biến một nửa nước thành nhà tù và tệ hại hơn nữa ông Hồ là kẻ bán nước. Ông Vĩnh chê bọn cầm quyền hiện nay tham nhũng, nhưng ông quên rằng dưới thời Hồ Chí Minh, nhà thơ Phùng Quán chỉ làm bài thơ "Chống tham ô lãng phí" và bài "Lời Mẹ dặn" đề cao Sự Thật thì bị đày đọa mút chỉ. Hữu Loan cũng mô tả bộ máy cai trị ở Miền Bắc bằng mấy câu thơ:

"Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ "Dân chủ Cộng hoà"
Những thằng nịnh hót còn thênh thang đất sống..."


Thế mà ông Vĩnh dám viết: "Thực tế trên đây là giai đoạn hào hùng của dân tộc Việt Nam cũng là giai đoạn quang vinh của Đảng cộng sản Việt Nam (Đảng Lao động ViệtNam)". Nhân cách của một ông Tướng, một ông Đại sứ để đâu mà tâng bốc Đảng một cách dối trá như vậy?

Tưởng rằng sau bức thư tôi viết cho ông (tôi nhờ ông Nguyễn Huệ Chi chuyển bằng email thì không thể thất lạc được), Tướng Vĩnh sẽ thức tỉnh để nhìn lại bản thân, không ngờ mỗi một bài viết của ông sau đó càng gia tăng cường độ sùng bái Hồ Chí Minh. Tôi nghĩ rằng ông Vĩnh cũng chỉ là người nịnh bợ Hồ Chí Minh một cách vô liêm sỉ như bọn Tố Hữu, Xuân Diệu nên được Hồ Chí Minh móc cho cái lon tướng, cho làm Đại Sứ; chứ chẳng phải loại người yêu nước thương nòi khi lên án bọn cầm quyền sau năm 1975 biến chất, tha hóa. Mang danh nghĩa là nhà "cách mạng lão thành", nhưng kỳ thực ông Vĩnh chỉ là Ông Bình Vôi như cụ Phan Khôi ám chỉ Hồ Chí Minh:

"Những kiếp người đã sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại"


Nên nhớ sau Đại hội 20 của Đảng Cộng Sản Liên Xô ngày 20 tháng 2 năm 1956. Khrushchev đọc bài diễn văn hạ bệ Staline, Mikoyan được cử làm sứ giả sang Việt Nam chỉ thị cho Hồ Chí Minh thi hành "tân chính sách", hãy ngưng chiến dịch "cải cách ruộng đất", nhưng Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục tiến hành cho đến cuối năm 1956 thì mới dùng những giọt nước mắt cá sấu để xin lỗi quốc dân và hứa hẹn sửa sai. Lòng dân oán thán chưa yên thì Hồ Chí Minh đưa ra phong trào "Trăm hoa đua nở" rập khuôn theo Trung Cộng nhằm dò xét loại trí thức nào chống Đảng để hốt trọn gói (chữ của cộng sản). Thử hỏi lấy thước đo gì để ông Vĩnh bảo rằng dân tín nhiệm Đảng, lại tin yêu Đảng mà chưa hề có một cuộc trưng cầu dân ý một cách công khai, minh bạch?

Sang đến ông Lê Hiếu Đằng vì bệnh thập tử nhất sinh mới viết một bài tính sổ đời mình có vẻ chân tình, yêu nước, nhưng rồi cũng có câu: "Đảng Cộng sản Việt Nam HIỆN NAY đã KHÔNG CÒN là đảng cách mạng như trước đây nữa", làm như thể cái đảng cộng sản mà ông tham gia trước đây không phải là ĐẢNG CƯỚP! Cái đảng nhân danh "giải phóng", vơ vét tất cả nhân lực, tài lực, vật lực làm nghèo cả Miền Bắc để xâm lăng Miền Nam, rồi cướp sạch sành sanh tài sản Miền Nam mà dám bảo là ĐẢNG CÁCH MẠNG à? Những ông cộng sản từ già tới trẻ đều có chung một sách giống nhau. Mặc dầu đã phản tỉnh, nhưng còn khoe cái hào quang dĩ vãng (nhơ nhớp) mà bị phê bình, thì lập tức quy cho người ta là Chống Cộng Cực Đoan! Giá như còn tại chức, tại quyền thì họ không tiếc gì chữ Phản Động, chống phá Nhà Nước Cách Mạng hoặc âm mưu lật đổ chính quyền!

Năm 2011, anh Mai Thái Lĩnh – một trong những nhà trí thức từ Đà Lạt – viết cho tôi một email đại ý như sau: "Tôi biết anh Hà Sĩ Phu và anh rất thân nhau, nhưng tại sao khi anh Hà Sĩ Phu khen người nào thì anh lại chống người đó?" Sự thể là như thế này: Anh Hà Sĩ Phu khen anh trí thức (!) Miền Nam Lê Hiếu Đằng theo cộng sản nay đã có can đảm ký tên trong bản kiến nghị xin nhà cầm quyền ngưng cho Tàu khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, thì tôi chê Lê Hiếu Đằng dám "dũng cảm" chống chính quyền Miền Nam dùbị Tòa Án Mặt Trận Vùng III Chiến Thuật kêu án tử hình khiếm diện; nhưng nay chỉ khép nép ngồi nhà ký tên vào bản kiến nghị mà thôi. Tôi trả lời anh Mai Thái Lĩnh như sau: "Anh Hà Sĩ Phu với tôi tuy hai mà một, tư duy về con đường dân chủ hóa cho đất nước chẳng có gì khác nhau cả. Chẳng qua hai anh em tôi ở vào cái vị thế khác nhau mà thôi. Anh Hà Sĩ Phu giống như người cha nhân từ thấy một đứa con hoang đàng trở về nhà thì vỗ về để khuyến khích đứa khác cũng tìm đường trở về. Còn tôi là người cha nghiêm khắc thấy đứa con trở về thì ra điều kiện phải bỏ thói nghiện cần sa, mê cờ bạc mới được trở về, nghĩa là dứt khoát, vì ngôi nhà này không là nơi tạm thời cho kẻ trú mưa tránh nắng". Ý tôi muốn nói với anh Mai Thái Lĩnh rằng người cộng sản lầm đường khi thức tỉnh phải có một lời xin lỗi dân tộc Việt Nam.

Tại sao ư? Vì dù nhiều dù ít gì thì người sinh sống ở Miền Nam được ăn hạt gạo của Miền Nam, được hít thở không khí tự do ở Miền Nam mà chạy theo cộng sản, làm nội tuyến cho cộng sản để giật sập một chế độ có nền dân chủ phôi thai đều có tội cả. Anh Hà Sĩ Phu không ở vào hoàn cảnh như anh em binh sĩ ở Miền Nam, những người lính trở về từ chiến trường, chỉ mong có được giây phút an bình để nghỉ ngơi rồi tiếp tục ra trận để cận kề cái chết. Trong khi những phần tử được tự do ăn học lại làm tay sai cho cộng sản phá nát hậu phương thì chúng tôi dù thiện chiến tới đâu cũng thể đánh thắng quân thù được! Họ đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh mà không bao giờ họ lên án quân xâm lược từ Miền Bắc thì đủ chứng tỏ họ là những kẻ gian lận, vô nhân cách, chứ chẳng phải vì yêu chuộng hòa bình gì cả.

Những người cộng sản phản tỉnh như ông Vĩnh, ông Đằng cũng như phần lớn những người cộng sản phản tỉnh khác đều chê những người cộng sản đang cầm quyền tha hóa, hèn với giặc ác với dân, chứ không nghĩ rằng bọn cầm quyền này là con đẻ, là sản phẩm của cái bộ máy cai trị do Hồ Chí Minh lập nên. Nếu những người cộng sản mệnh danh là "phản tỉnh" đang còn ở địa vị cầm quyền thì họ cũng hèn với giặc, ác với dân thôi. Đó là thực tế! Chẳng qua họ không có cái dũng của người trí thức như nhạc sĩ Tô Hải, tác giả Hồi Ký của một Thằng Hèn. Họ là trí thức giả mạo, vì không dám thú tội!

Đọc các bài viết của ông Vĩnh, ông Đằng, độc giả đều thấy trình độ nhận thức và lý luận của họ vừa thấp kém vừa quanh co trước sau bất nhất. Khi bị độc giả phê bình thì bảo rằng đó là những phần tử Chống Cộng Cực Đoan. Mục đích duy nhất của họ là bào chữa cho cái quá khứ u mê chẳng biết chủ nghĩa xã hội là gì, nhưng vẫn làm quan to trong cái Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa giống như các ông bà tai to mặt lớn trong buổi hội thảo do Phó Thủ tướng Trần Phương chủ trì trước ngày Đại hội Đảng.

Người nào còn quan tâm đến Đất Nước đều mang một nỗi buồn như tôi: Cả nước bị Hồ Chí Minh đánh lừa để đảng cộng sản lên ngôi thống trị; rồi cả nước đều phải sống trong sự sợ hãi đành không dám nói lên ý nghĩ thật của mình, tức là phải nói dối để tồn tại. Một dân tộc bị rơi vào cuộc khủng hoảng nhân cách thì chỉ còn con đường đi làm đầy tớ mà thôi! May thay Trời Phật đã phái xuống trần gian những nam nữ anh hùng hào kiệt mà tiêu biểu là Nguyễn Phương Uyên. Hôm kia có người bạn hỏi tôi tại sao không viết một bài ca ngợi sự dũng cảm của Phương Uyên, tôi đáp: "Tôi không đủ ngôn ngữ để ca ngợi một nhân vật có nhân cách vĩ đại như Phương Uyên. Tôi chỉ biết chấp tay, quỳ xuống bái phục nàng, vì tôi hình dung nàng là một vị Thiên Sứ xuống trần thế để báo hiệu ngày cáo chung của Đảng Cộng Sản trên đất nước Việt Nam". Bạn hỏi tại sao tôi nghĩ thế, tôi đáp: "Bởi vì muốn lật đổ một bạo quyền có một tập đoàn lãnh đạo đã mất hết khả năng biết xấu hổ (tức là không có nhân cách) thì những nhà tranh đấu cần phải có một nhân cách lớn mới được. Nghĩa là mỗi công dân trong nước phải ý thức rằng Con Người sinh ra là có quyền Tự Do; chứ không chấp nhận mình bị đối xử như con vật". Động cơ đấu tranh là giành lại phẩm giá của mình; chứ không phải hận thù giai cấp như cộng sản. Thật vậy, câu trả lời ngắn ngủi của Phương Uyên trước mặt quan tòa ở Long An sẽ đi vào lịch sử nhân loại giống như Mục sư Martin Luther King thét lên trước quần chúng: I Have A Dream!

Tôi vẫn khẳng định rằng kẻ nào hô hào đấu tranh cho tự do dân chủ, cho đa nguyên đa đảng thì không nên luôn mồm xưng tụng Hồ Chí Minh, vì Hồ Chí Minh đã đánh lừa cả dân tộc, là một kẻ phá hoại đạo đức truyền thống của tổ tiên, là kẻ bán nước cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.

Đoàn kết là cần thiết để có sức mạnh là tất yếu, nhưng không thể đoàn kết với những người như ông Nguyễn Trọng Vĩnh mà trong lòng còn tơ tưởng đến Hồ Chí Minh, một tội đồ khủng khiếp!

Bằng Phong Đặng văn Âu

 

 

.
by Lý Tưởng Người Việt
Đặng Tự Do

alt
Mohamed Badie
Sáng sớm thứ Ba 20 tháng 8, quân đội Ai Cập đã bắt được lãnh tụ Huynh Đệ Hồi Giáo Mohamed Badie đang trốn tại một căn chung cư ở thành phố Nasr, phía đông bắc Cairo. 
Mohamed Badie đã bỏ trốn từ hôm 3 tháng 7, sau khi quân đội bắt giam cựu tổng thống Mohamed Morsi. Hầu hết các cấp lãnh đạo của Huynh Đệ Hồi Giáo đã bị bắt ngay đầu tháng 7. Tuy nhiên, Badie nhanh chân trốn thoát và đạo diễn những vụ tấn công vào các đồn bót cảnh sát, các nhà thờ Kitô Giáo và các dinh thự chính phủ. Con trai ông này là Ammar Badie, 38 tuổi, đã bị giết chết hôm thứ Sáu trong cuộc nổi loạn gọi là "ngày cuồng nộ".
Trong một diễn biến mới nhất tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo bị cáo buộc là đã phục kích một đoàn xe quân đội tại khu vực núi Sinai giết chết 25 binh sĩ.
Hôm 19 tháng 8, cảnh sát đã di chuyển 612 người bị bắt, phần lớn là các thành viên của tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo, từ Cairo đến nhà tù Abu Zaabal. Dọc đường đoàn xe chở tù đã bị phục kích trong một mưu toan giải thoát các tù nhân. 35 tù nhân đã bị chết ngộp.
Với việc bắt giữ Mohamed Badie, hầu hết các lãnh tụ Huynh Đệ Hồi Giáo đã bị bắt giữ. Tuy nhiên, làn sóng bạo động có vẻ vẫn chưa lắng dịu vì những thày giảng Kinh Koran vẫn tiếp tục tung ra những Fatwa kêu gọi tổ chức những "ngày cuồng nộ" tại quảng trường Rames. Những lãnh tụ tinh thần này cách nào đó là bất khả xâm phạm.
Từ hôm thứ Tư 14 tháng 8 đến nay, theo báo cáo chính thức đã có 830 người thiệt mạng trong đó có 95 cảnh sát và binh sĩ Ai Cập. 
Phần lớn các cảnh sát viên bị thiệt mạng vào ngày 14 và 15 tháng 8 khi tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo tấn công vào các đồn bót cảnh sát lẻ tẻ không có khả năng tự vệ. Những băng ghi hình cho thấy nhiều đồn cảnh sát đã bị tàn sát tập thể không còn người nào sống sót.
Tại Alexandria, nhiều người cả thường dân lẫn cảnh sát bị tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo ném đá đến chết hay bị bắt đưa lên các tòa nhà cao rồi xô xuống cho bể sọ chết.
by Lý Tưởng Người Việt
(Thân mến gởi các bạn trẻ Việt Nam còn đang say ngủ trên toàn thế giới )
 
 
Hãy thức dậy, hỡi ai còn say ngủ
Và những ai lạc lối hãy quay về
Luật tiến hóa, một vòng quay đã đủ
Bạn hiền ơi, đừng mê nữa, cơn mê ....
 
Các bạn hỡi , gọi nhau mà thức dậy
Với niềm tin, ta quyết chí lên đường
Ðừng lãnh đạm, thờ ơ như chẳng thấy
Ðừng mơ hồ, mờ ảo giữa biên cương !
 
Ðã gần đủ một phần tư thế kỷ
Quê hương ta đau đớn dưới hung tàn
Dân tộc ta, bao triệu người khốn khổ
Sao đành lòng làm một kẻ bàng quan???
 
Hãy đứng dậy, hiên ngang như Phù Ðổng
Lấy tre ngà đuổi giặc giữ quê hương
Như Quốc Toản, giữa rừng cờ gió lộng
Thanh niên ơi! mau dũng cảm lên đường
 
Hãy đứng dậy, dấn thân vì đại cuộc
Cho Việt Nam sông núi được huy hoàng
Hãy nối chí tiền nhân muôn thuở trước
Ðưa giống nòi về đến bến vinh quang !
 
Hãy thức dậy nghe hồn trai rộn rã
Tình quê hương réo gọi ở muôn lòng
Trăm ngọn thác trào dâng về biển cả
Kíp hoàn thành sứ mạng với non sông !
 
Ðây tiếng gọi thiêng liêng hồn sông núi
Từ con tim vang động bốn phương trời
Hãy cùng nhau đứng lên xua bóng tối
Quê hương ta chờ ta đấy, ta ơi !!!
 
 
Ngô Minh Hằng
by Lý Tưởng Người Việt
caitao2Trong tháng 4/1975, cộng sản Bắc Việt - với sự yểm trợ và tiếp vận của khối cộng sản quốc tế - đã mở một cuộc tấn công ào ạt bằng quân sự với chiến xa và trọng pháo vượt qua biên giới, chiếm đóng lãnh thổ VNCH một cách phi pháp. Đây là một cuộc xâm lăng của khối Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho bọn tay sai Việt Cộng. Theo công pháp quốc tế, VNCH hội đủ tám tiêu chuẩn của một quốc gia độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã phạm tội ác xâm lược (the crime of aggression). Đây là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The International Criminal Court, viết tắt là ICC).
Ngày Thứ Hai, 23/7/07, trên trang mạng của tờ The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về "học tập cải tạo" tại Việt Nam và đã kết luận rằng ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn - dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trong toàn cõi Việt Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đã bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm. Đây là một tội ác hình sự mang tính lịch sử vô tiền khoáng hậu của lũ Việt gian cộng sản mà ngàn đời sau phải ghi nhớ.
Cũng theo cuộc điều tra nói trên, cứ mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị, bị hành quyết…  Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà chánh phạm là tên Lê Duẩn… và ba tên đồng phạm hiện nay là  Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng.
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa tội Thủ Tiêu Mất Tích Người "Enforced Disappearance of Persons" như sau:
Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là bắt giữ, giam giữ hay bắt cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của một quốc gia hoặc một tổ chức chính trị, sau đó không nhìn nhận sự tước đoạt tự do của người ta và cũng không thông báo tin tức về số phận hoặc nơi giam giữ với chủ tâm tước đi quyền được luật pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian lâu dài. "Enforced disappearance of persons means the arrest, detention or abduction of persons by, or with the authorization, support or acquiescence of a State or a political organization, followed by a refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to give information on the fate or whereabouts of those persons, with the intention of removing them from the protection of the law for a prolonged period of time."
Theo định nghĩa trên đây, Việt Cộng đã phạm tội ác thủ tiêu mất tích người khi chúng lạm danh chính quyền của quốc gia để đưa ra những thông cáo lừa gạt để bắt và giam giữ một cách phi pháp - dưới cái ngụy danh "học tập cải tạo" – và hành hạ cho tới chết bằng những đòn thù của chúng, và tiếp tục chôn giấu hài cốt của 165,000 quân dân cán chính VNCH trong vùng rừng núi với chủ tâm thủ tiêu mất tích. Đây là một tội ác chống loài người (a crime against humanity). Tội ác này thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế. 
Ngoài tội ác đối với những người đã chết, cộng sản còn phạm thêm một tội ác chống loài người nữa đối với thân nhân của những người đã chết. Đó là hành động độc ác (inhumane act) với chủ tâm gây đau khổ tinh thần triền miên suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh của những người mẹ, người vợ, người con… đã có con, có chồng, có cha…bị giam cầm hành hạ cho tới chết và thân xác bị chôn giấu tại một xó thâm sơn cùng cốc nào đó và tuyệt vô âm tín suốt 35 năm nay mới thấu được nỗi thống khổ trong tâm can họ!
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa những hành động độc ác của tội ác chống loài người này như sau:
Những hành động độc ác có cùng một tính cách với chủ tâm gây thống khổ hay thương tích nghiêm trọng cho thân xác hay cho sức khoẻ về thể chất và tinh thần. "Other inhumane acts of a similar character intentionally causing great suffering or serious injury to body or to mental or to physical health."
Theo định nghĩa trên đây, cộng sản đã phạm tội ác chống loài người khi chúng chôn giấu trong rừng sâu 165,000 bộ hài cốt của quân dân cán chính VNCH đã chết dưới đòn thù của chúng với chủ tâm gây thống khổ "intentionally causing great suffering" suốt đời cho thân nhân của họ. Đây là cung cách trả thù phi pháp (extrajudicial retribution) của quân thảo khấu sống ngoài vòng pháp luật. Tội ác này cũng thuộc quyền xét xử của ICC.
Bổn phận của chúng ta, những người tù còn sống sót sau cơn đại hồng thủy là phải cất tiếng nói công chính, nêu rõ tội ác của chúng để mang bọn tội phạm này ra trước công lý và mang công lý đến cho những nạn nhân của chúng. Đây là bổn phận phải làm để trả lại danh dự cho 165,000 quân dân cán chính VNCH đã bị sát hại vì đòn thù của Việt Cộng trong những cái gọi là trại cải tạo và để xoa dịu một phần nỗi đau thương của thân nhân những nạn nhân. 
Hai tội ác chống loài người trên đây của Việt Cộng là những tội ác hình sự có tính quốc tế và. được dự liệu tại Đạo Luật Rome. Trước khi đưa bọn tội phạm ra xét xử trước công lý, xin trình bày tóm lược về Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.
Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The Rome Statute of the International Criminal Court)
Sau một thời gian dài cố gắng thành lập một Toà Án Hình Sự Quốc Tế để xét xử và trừng phạt các cá nhân phạm bốn loại tội ác nghiêm trọng được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm gồm: 1/ tội ác diệt chủng (the crime of genocide), 2/ tội ác chống nhân loại (crimes against humanity, 3/ tội ác xâm lược (the crime of aggression), 4/ và tội ác chiến tranh (war crimes), cuối cùng thì một hội nghị đã được Liên Hiệp Quốc triệu tập tại Rome, Italy trong thời gian từ ngày 15/6/1989 đến ngày 17/7 /1989 với 160 quốc gia tham dự. Sau năm tuần lễ thảo luận và điều đình căng thẳng, 120 quốc gia đã bỏ phiếu chấp thuận Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế cùng với bẩy quốc gia bỏ phiếu chống (Hoa Kỳ, Do Thái, Trung Cộng, Iraq, Qatar…) và 21 quốc gia bỏ phiếu trắng. Đạo Luật Rome gồm có – ngoài Lời Mở Đầu (Preamble) – 13 Phần (Part) với 28 Điều (Article). Các Điều 6, 7 và 8 liệt kê và định nghĩa các tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh. Các Điều còn lại nói về quyền hạn, tổ chức và điều hành… của Toà Án.
Theo quy định, Đạo Luật Rome sẽ có hiệu lực sau khi được 60 quốc gia phê chuẩn. Senegal là quốc gia phê chuẩn đầu tiên và quốc gia thứ 66 đã phê chuẩn vào ngày 11 tháng 4 năm 2002. Đạo Luật Rome có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2002. Toà Án Hình Sự Quốc Tế cũng được mở ra trong năm đó tại The Hague, Netherlands. Hiện nay đã có 110 quốc gia phê chuẩn Đạo Luật Rome và trở thành quốc gia hội viên (State party) của đạo luật này. Quốc hội Hoa Kỳ đã không phê chuẩn đạo luật này, nên Hoa Kỳ không phải là quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome.
Toà Án Hình Sự Quốc Tế là một tổ chức quốc tế độc lập, không trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Điều này có nghĩa là Toà Án Hình Sự Quốc Tế độc lập về quyền tài phán, xét xử. Kể từ ngày 1-7-2002 trở đi, các quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome phải chấp nhận quyền xét xử (jurisdiction) của Toà Án Hình Sự Quốc Tế về những tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome khi những tội ác đó diễn ra tại các nước hội viên. Công dân của các quốc gia không phải hội viên (non State party) gây tội ác trên lãnh thổ của các quốc gia hội viên cũng phải chịu sự xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.
Công Tố Viên Trưởng của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The ICC's Chief Prosecutor) bắt đầu thụ lý và mở một cuộc điều tra về một vụ án khi nhận được tin tức về tội ác đang diễn ra do các quốc gia hội viên hoặc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chuyển tới. Ngoài hai nơi cung cấp tin tức nói trên, Công Tố Viên còn có thể nhận tin tức từ các nguồn cung cấp khác như các cá nhân hay các tổ chức ngoài chính phủ (non-governmental organizations).
Khi tội ác diễn ra trên lãnh thổ của một quốc gia không phải hội viên, chỉ có Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc mới có quyền chuyển thông tin về những tội ác đó cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý. Đây là trường hợp đã được áp dụng đối với Sudan, một quốc gia không phải hội viên. Bằng Nghị Quyết  số 1593 năm 2005, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã chuyển tới Toà Án Hình Sự Quốc Tế tình trạng tội ác đã và đang diễn ra tại Darfur. Phòng công tố đã mở các cuộc điều tra, và ngày 14-7-2008, Toà Án đã ban hành trát bắt giữ Ahmad Muhammed Harun (Ahmed Haroun), Bộ Trưởng Nội Vụ của Sudan và Ali Muhammed Ali Abd-Al-Rahman (a.k.a Ali Kushayb), một  tư lệnh dân sự. Hai người này bị quy trách nhiệm về các tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh đã và đang diễn ra tại Darfur. Chính quyền Sudan đã từ chối bắt giữ và giải giao hai nhân vật nói trên cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế.
Ngày 14-7-2008, Công Tố Viên Luis Mereno-Ocampo đã trình bày những chứng cứ chứng minh rằng Tổng Thống Sudan phải chịu trách nhiệm về các tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đã và đang diễn ra tại Darfur. Ngày 4-3-2009, Toà Án Hình Sự Quốc Tế đã ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Omar Hassan Al-Bashir của Sudan để trả lời trước công lý về năm tội ác chống nhân loại được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome: 1/ Tội giết người (Murder), 2/ Tội huỷ diệt chủng tộc (Extermination), 3/  Tội cưỡng bức chuyển vùng cư trú (Forcible transfer), 4/  Tội hành hạ (Torture), 5/  Tội hiếp dâm (Rape), và hai tội ác chiến tranh được dự liệu tại Điều 8 của Đạo Luật Rome: 1/ Tội cướp bóc (Pillaging), 2/ Tội trực tiếp tấn công có chủ tâm vào cư dân hay những cá nhân không đứng vào phe nào trong cuộc tranh chấp thù địch.
Cùng với việc ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Bashir, Toà Án Hình Sự Quốc Tế cũng gửi một công văn yêu cầu nhà cầm quyền Sudan giải giao Tổng Thống Bashir cho Toà Án. Theo Nghị Quyết số 1593 năm 2005 của Hội Đồng Bảo An LHQ đã nói ở trên, chính quyền Sudan có bổn phận phải hợp tác với Toà Án. Tuy nhiên, không có hy vọng chính quyền Sudan sẽ bắt  và giải giao Tổng Thống Sudan cho Toà Án. Chính quyền này đã nhiều lần tuyên bố rằng họ không nhìn nhận thẩm quyền của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.
Nếu Tổng Thống Bashir không ra trình diện hoặc chính quyền Sudan không giải giao ông này cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế, ông ta sẽ bị coi như một kẻ đang đào tẩu, trốn tránh công lý (a fugitive from justice). Và kể từ nay, khi nào ông Bashir bước chân ra khỏi Sudan, đến một quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome và ngay cả những quốc gia không phải hội viên nhưng sẵn sàng hợp tác với Toà Án, ông ta sẽ bị bắt và giải giao cho Toà Án để trả lời trước công lý về những tội ác mà ông ta phải chịu trách nhiệm.
Một điều quan trọng cần ghi nhận rằng lệnh bắt giữ để đưa ra toà án xét xử một tổng thống đang tại chức vì những tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh…là hồi chuông cảnh báo nghiêm khắc cho những kẻ cầm quyền đang phạm những tội ác chống nhân loại có tổ chức quy mô tại Việt Nam  như những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng rằng chúng sẽ phải đối diện với công lý bất kể quyền lực và cương vị của chúng.
Tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH đã hiển nhiên không thể chối cãi. Ngoại trừ một số rất ít hài cốt của họ đã đuợc thân nhân tìm cách chạy chọt cải táng, tuyệt đại đa số 165,000 bộ hài cốt còn lại đã và đang bị cộng sản chôn giấu để thủ tiêu với chủ tâm trả thù. Chánh phạm của tội ác chống loài người này là tên Lê Duẩn và các thủ phạm tiếp theo là những tên Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải…và  ba tên tòng phạm hiện nay là  Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng. Ngoại trừ những tên đã chết, tất cả những tên còn sống - sớm hay muộn - sẽ phải ra trước vành móng ngựa để trả lời  về những tội ác giam cầm phi pháp và thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH và nhiều tội ác khác mà chúng đã phạm đối với dân tộc Việt Nam trong suốt thời gian kể từ khi chúng cướp được chính quyền bằng khủng bố từ ngày 19/8/1945. Đảng cộng sản VN, một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, là một tổ chức tội ác tay sai có tính quốc tế. Sớm hay muộn, tội ác phải bị trừng phạt.
Ngụy quyền Việt Cộng không ký và phê chuẩn Đạo Luật Rome, nên cộng đồng người Việt hải ngoại không thể trực tiếp chuyển các tội ác chống nhân loại của chúng cho Công Tố Viên của Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý. Tuy nhiên, chúng ta có thể tố cáo tội ác của chúng đến Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ (United Nations Human Rights Council) để yêu cầu uỷ ban này mở cuộc điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH và chuyển thông tin về những tội ác này cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để chuyển tiếp tới Toà Án Sự Hình Sự Quốc Tế để thụ lý. Sự kiện này đã có tiền lệ và chúng ta có thể áp dụng.
Trước dư luận quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế về tội ác trong cuộc chiến tại Gaza, ngày 3-4-09, Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ đã mở một cuộc  điều tra về tội ác chiến tranh đã diễn ra tại dải Gaza trong cuộc chiến 22  ngày từ 27-12- 2008 tới 18-1- 2009. Toán điều tra gồm bốn chuyên viên  cầm  đầu bởi Thẩm Phán Richard Goldstone. Sau năm tháng điều tra, ngày 29-9-2009, Thẩm Phán Richard Goldstone đã trình cho Uỷ Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva báo cáo kết quả điều tra gồm  575  trang và kết luận rằng cả Do Thái và Palestine cùng phạm tội ác chiến tranh mang tính chất tội ác chống loài người. Báo cáo yêu cầu Hội Đồng Bảo An LHQ đòi hỏi cả hai bên trong cuộc chiến - trong thời hạn sáu tháng - phải điều tra và xét xử những kẻ phạm tội.  Nếu hai phe không thi hành, tội ác sẽ được chuyển cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý.
Ngoài sự kiện kể trên, sau đây là hai trưòng hợp điển hình về pháp lý quốc tế mà người Việt hải ngoại có thể áp dụng đối với những tên đầu sỏ Việt Cộng khi chúng ra khỏi nước.
Ngày 14/12/09,  trang mạng  của báo Guadian.co.uk đã đưa tin về việc Ông Moshe Yaalon, Phó Thủ Tướng Do Thái, đã quyết định không đến tham dự một buổi lễ gây quỹ tại Luân Đôn trong tháng 11/09, sau khi được cảnh báo rằng ông ta có thể bị bắt giữ vì bị cho là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Quyết định của ông ta được đưa ra trong Tháng 10/09, một tuần lễ sau khi các luật sư của 16 người Palestine đã không thành công trong việc vận động một toà án tại Anh ban hành trát bắt giữ Ông Ehud Barak, Bộ Trưởng Quốc Phòng Do Thái, khi ông này viếng thăm Anh vì bị cho là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza.
Cũng nguồn tin nói trên cho biết ngày Thứ Bẩy 12/12/09, một toà án tại Luân Đôn đã ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái, cũng bị cho là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Lệnh bắt giữ này đã được hủy bỏ vào ngày Thứ Hai 14/12/09 sau khi được biết Bà Tzipi Livni đã hủy bỏ, không tham dự một buổi hội họp tại Luân Đôn vào ngày Chủ Nhật 13/12/09. Toà án đã ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni chiếu theo yêu cầu của các luật sư đại diện cho các nạn nhân người Palestine trong cuộc chiến tại Gaza. Bà Tzipi Livni là thành viên của nội các chiến tranh và bộ trưởng ngoại giao của Do Thái khi diễn ra cuộc tấn công vào dải Gaza vào cuối năm 2008.
Khi những người Palestine vận động một toà án của Anh quốc ban hành trát bắt giam Ông Bộ Trưởng Quốc Phòng và Bà cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái khi hai người này đến Anh quốc, họ đã dựa trên nguyên tắc pháp lý quốc tế về quyền xét xử phổ biến "universal jurisdiction or universality principle." Quyền này dựa trên lập luận rằng tội ác đã phạm được coi như một tội ác chống lại tất cả "a crime against all" và bất cứ quốc gia nào cũng có quyền trừng phạt.  Do đó, những nạn nhân và cũng là thân nhân của những người đã bị Việt Cộng thủ tiêu mất tích cũng có thể vận động để áp dụng nguyên tắc pháp lý quốc tế này đối với những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng… khi chúng bước chân ra khỏi nước và đến những quốc gia có áp dụng nguyên tắc pháp lý quốc tế về quyền xét xử phổ biến. 
Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam là tổ chức chính danh nhất đại diện cho cộng đồng người Việt hải ngoại để yêu cầu Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH. Nếu Việt Cộng từ chối không cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ vào Việt Nam để mở cuộc điều tra này, điều đó chứng tỏ rằng chúng tìm cách chốn tránh tội ác của chúng.
Nếu chúng ta vận động mà LHQ - một tổ chức giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành Toà Án Hình Sự Quốc Tế - vì một lý do nào đó, không chuyển những tội ác chống loài người của Việt Cộng cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý, chúng ta vẫn còn cách đưa bọn tội phạm này ra trước công lý. Sớm hay muộn, chế độ cộng sản vô tổ quốc, phi dân tộc sẽ bị huỷ diệt. Chính những tên đầu sỏ đang tiếm quyền trong nưóc cũng đang thú nhận rằng chế độ của chúng đang tự diễn biến, đang tự chuyển hoá để tự huỷ diệt…Ngày đó không còn xa và một chính quyền chính thống của toàn dân Việt Nam sẽ hợp tác với LHQ để tổ chức một toà án hình sự đặc biệt có tính quốc tế như Toà Án Đặc Biệt tại Cam Bốt có tên Anh ngữ là  Extraordinary  Chamber  in the Courts of Cambodia (viết tắt là ECCC) đang xét xử bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ tại Nam Vang vì các tội ác chống loài người, tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng. Đây là một tiền lệ sẽ được thực thi tại Việt Nam sau này để xét xử những tên chánh phạm Việt Cộng đã phạm bốn nhóm tội ác có tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome trong suốt những năm tiếm quyền của chúng.
Mang Việt Cộng, bọn tội phạm có tính quốc tế, ra trước công lý và mang công lý tới các nạn nhân của chúng là điều cần thiết bởi vì công lý là một thành tố không thể thiếu trong tiến trình hoà giải dân tộc. "Justice is an indispensable ingredient of the process of national reconciliation." Dân tộc Việt Nam đã bị phân hoá và chia rẽ, xã hội Việt Nam đã bị băng hoại trầm trọng bởi những di sản độc hại mà chế độ phi nhân cộng sản đã để lại cho dân tộc suốt 80 năm nay kể từ khi Hồ Chí Minh lén lút du nhập cái chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Mang bọn tội phạm này ra trước công lý là để mang lại hoà bình cho xã hội. "Justice and peace go hand in hand." Sau hết, mang bọn tội phạm Việt Cộng ra trước công lý là một bài học cho các thế hệ tương lai để tránh những vết xe đổ của lịch sử.

Đi Vào Bất Tử
165,000 quân dân cán chính VNCH đã chết dưới đòn thù của cộng sản trong các trại tù cải tạo phải được tôn vinh là những người đã hy sinh vì chính nghĩa quốc  gia dân tộc. Tổ quốc sẽ ghi ơn họ như đã ghi ơn những người  chiến sĩ QLVNCH đã chiến đấu và hy sinh ngoài mặt trận để bảo vệ quê hương. Về phương diện tâm linh, tôi không tin rằng những người này đã chết mà chỉ tan mờ đi như hình ảnh những người lính trong cái điệp khúc của  khúc ballad nổi tiếng một thời mà Đại Tướng Douglas MacArthur đã nhắc đến trong phần cuối của bài diễn văn từ biệt đọc tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 19-4-1951. Xin ghi lại nguyên văn và không chuyển ngữ: 
"Old soldiers never die; they just faded away."
Cũng xin ghi lại đây và không chuyển ngữ câu kết của bài diễn văn từ biệt nổi tiếng đã đi vào lịch sử của Đại Tướng MacArthur để những người lính chúng ta chiêm nghiệm.
"And like the old soldier of that ballad, I now close my military career and just fade away, a soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty."
"Good bye,"
Đây cũng chính là hình ảnh của những chiến binh QLVNCH, những người đã đi chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc dưới ánh hào quang dẫn đường của Tổ Tiên Lạc Việt và đi vào bất tử.
Và những hình ảnh hiên ngang đi vào bất tử của người chiến binh QLVNCH khi bị sa cơ trong tay quân thù cũng đã được nhà thơ Cung Trầm Tưởng ghi lại trong bài hành Vạn Vạn Lý được viết tại một trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn vào năm 1977.

VẠN VẠN LÝ
(Tưởng nhớ những tù hùng tuẫn tử)
Cung Trầm Tưởng

                        Ngồi trùm lần bóng tối           Mưa về gióng lê thê
Nhìn mây đi lang thang          Nai kêu nguồn đâu đó
Mây giăng xám hàng hàng      Xưa nay tù ngục đỏ
Trời vào đông ảm đạm          Mấy ai đã trở về

Chấn song đan u ám             Vỗ vỗ rơi tàn thuốc
Sần sùi nhớp nhúa đen          Phà khói vào mông lung
Ran ran nhạc dế mèn            Hư vô đẹp não nùng
Nhởn nhơ cười chẫu chuộc   Nụ hôn đời khốc liệt

Vỗ vỗ rơi tàn thuốc              Cõi sầu ta tinh khiết
Phà khói vào hơi sương        Thép quắc vầng trán cao
Xa xưa trống lên đường        Phong sương dệt chiến bào
Tiếng quân hô hào sảng        Với máu xe làm chỉ

Nẻo cồn vàng bãi trắng         Đã đi trăm hùng vĩ        
Sa trường hề sa trường         Xông pha lắm đoạn trường
Tiết tháo quắc đao thương    Về làm đá hoa cương
Chinh nhân ngàn dặm ruổi    Gửi đời sau tạc tượng

Gió lên như địch thổi            Uống uốngnguyên hàm lượng
Đưa ai qua trường giang        Sương trong cất đầy vò
Nay cô liêu bạt ngàn             Sầu này thước nào đo
Tiễn ta vào bất tử                 Khi đao rơi kiếm gẫy

Đau thương là vinh dự           Gió về lay lau dậy
Chân đi hất hồng trần             Sơn khê khói mịt mù
Anh hùng phải gian truân        Ngà ngà nhấp thiên thu
Hy sinh là tất yếu                   Bay…bay…vạn vạn lý
Ngựa phi dòn nước kiệu…      Tráng sĩ hề tráng sĩ!

Cung Trầm Tưởng
Hoàng Liên Sơn, 1977

Trong khi viết bài này, tôi luôn luôn nghĩ đến những người bạn tù đã chết vì đòn thù của  cộng sản trong đó có anh bạn tại trại 6, liên trại 2 tại Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi cùng thuộc đội "lao động nặng." Anh nằm cách tôi một người bạn. Vào một tháng cuối năm 1977, cả đội tù chúng tôi khoảng 50 người phải đi phát quang một khu đồi rộng 300 mẫu để trồng khoai mì. Khu đồi này cách trại giam khoảng 15km đường rừng. Ban ngày đi làm khổ sai; đêm đông về, đói và lạnh, chúng tôi phải ngủ trong những túp lều trống gió, mái che bằng những tấm nylon cá nhân, dựng tại chân đồi. Tuy là lính nhưng dáng người anh nho nhã. Trong đầu anh chứa cả một bộ từ điển bách khoa. Năm đó anh chừng 45 tuổi. Sau hai tháng khổ sai tại khu đồi 300, trở lại trại tù ít ngày thì anh chết vì suy dinh dưỡng và kiệt sức nhưng tinh thần anh luôn luôn vững mạnh.  Giờ này, thân xác anh có thể còn đang bị cộng sản chôn giấu tại một góc rừng nào đó trong vùng Hoàng Liên Sơn trong nỗi đau khôn nguôi của vợ con anh. Tên anh là Đặng Vũ Ruyến, Trung Tá, Chánh Sở Địa Hình tại Đà Lạt.
Kể từ ngày đó đến nay đã hơn 30 năm, mỗi khi nhớ đến Anh,  tôi vẫn không tin là Anh đã chết mà Anh đang bay…bay vào Vạn Vạn Lý, và…fade away…vào nơi bất tử.

Đỗ Ngọc Uyển 
(Khoá 4 Thủ Đức)
Tháng 1 năm 2010
SanJose, California

Tài liệu tham khảo:
http://untreaty.un.org/cod/icc/statute/99_corr/2.htm, The Rome Statute of the ICC


http://www.geocities.com/cabvoltaire.geo/MacAthure, Douglas MacAthur's Farwell Speech to Congress

http://www.opinionjournal.com/best/?id=110010372, The Wall Street  Journal, from the WSJ Opinion Archives by James Tananto
http://un.org/en/law/index.shtml, International law, international Courts …
http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrcouncil/specialsession/9/FactFindingMission.htm, United Nations Fact Finding Mission on the Gaza conflict

http://www.nytimes.com/2009/03/05/world/africa/05court.html?r=1&partner=rssnyt&emc-rss&pagewanted Court Issues Arrest Warrant for Sudan's Leader
http://geography.about.com/cs/politicalgeo/a,statenation.htm, Defining an Independent Country
http://www.guardian.co.uk/world/2009/dec/14/tzipi-livni-israel-gaza-arrest British court issued Gaza arrest warrant for former Israel minister Tzipi Livni
http://www.guardian.co.uk/world/2009/dec/14/israeli-moshe-yaalon-visit-arrest Israel minister Moshe Ya'alon turned down UK visit over arrest fears

--------------------------------------------

Nhà Tù Cộng Sản Việt Nam 

 

Hành hạ, tù đày và sức khỏe. ... Người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn luôn hậm hực với "Sen Ðầm Quốc Tế Mỹ" vừa nghi kỵ nhưng vừa trục lợi với "Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm". Đã 30 năm rồi người ta vẫn linh đình ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở dài của dân chúng trong ngoài nước, thì phải chăng "nói vậy mà không làm vậy". Và chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy dòng chữ tưởng niệm linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên tìm tự do và tri ân quốc gia cứu giúp cũng bị người ta tìm cách phá hủy. Thiết nghĩ rằng, những người cộng sản đã quá vô cảm, chẳng còn một chút tình người.  ....  "Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó....Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau...

---------------------------------------------------------------

Hành Hạ, Tù Ðày Và Sức Khỏe

 

Nguyễn Ý Đức
 


Câu Chuyện Thầy Lang
Trong hơn một phần tư thế kỷ tiếp tục hành nghề tại hải ngoại, y giới chúng tôi đã có nhiều dịp được tiếp xúc với một lớp người mang những tâm trạng rối loạn về thể chất rất đáng để ý. Tìm hiểu căn nguyên của các bệnh tình này cũng không mấy khó khăn vì đa số là nạn nhân của một quá trình bị hành xác triền miên, đã mấy chục năm qua hậu quả xấu trên sức khỏe của họ dường như vẫn còn. Ðó là những người được mệnh danh là " Tù Nhân Cải Tạo".
Sao mà cứ "ăn cơm mới nói chuyện cũ" hoài vậy?
Vâng, đây là câu ta thường nghe một số người nêu ra, khi có ai nhắc tới cuộc chiến ở Việt Nam với các hậu quả của nó. Một trong những hậu quả bi thảm nhất là sự hành hạ các anh chị em quân cán chính miền Nam trong nhiều trại tù đầy sau ngày 30/04/1975. Nếu có ở trong hoàn cảnh của họ thì ta mới hiểu được những đau đớn mọi mặt mà họ đã phải trải qua. 
Vả lại, người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn luôn hậm hực với "Sen Ðầm Quốc Tế Mỹ" và nghi kỵ nhưng trục lợi với "Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm". Đã 30 năm rồi người ta vẫn linh đình ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở dài của dân chúng trong ngoài nước, thì phải chăng "nói vậy mà không làm vậy". Và chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy dòng chữ tưởng niệm linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên tìm tự do và tri ân quốc gia cứu giúp cũng bị người ta tìm cách phá hủy. Thiết nghĩ rằng, những người cộng sản đã quá vô cảm, chẳng còn một chút tình người.
Cho nên nhắc lại để người ta nhớ cũng là chuyện nên làm. Vì chính những nhân vật chủ trương ra lệnh tù đầy "ngụy quân, ngụy quyền" hồi đó cũng đã lên tiếng nhận có sai lầm chính sách về chuyện cô lập vô nhân đạo này.
Sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng tới phút chót, người thắng trận miền Bắc đã nghĩ ra một giải pháp có vẻ nhân đạo hơn nhưng thương tích sâu đậm dài lâu hơn. Quân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa đã được khuyến dụ trình diện để "học tập" ngắn hạn. Gọi là "tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa". Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.
Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình.
"Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!", Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang 152.
Sau đây là một số nhân chứng đã trải qua các cuộc hành xác tù đầy, kể lại những hình thức hành hạ nạn nhân. Chúng tôi xin phép các tác giả trích đăng để thế hệ con cháu trong ngoài nước hiểu rõ mà tránh đi vào vết xe cũ. Cũng để cảm ơn vì các ghi chép đã giúp thầy thuốc hiểu rõ nguyên nhân xa gần đưa tới bệnh tật của thân chủ và dễ dàng hơn trong khi điều trị, chăm sóc. 
Chứ chẳng phải để tiếp tục nuôi dưỡng những hận thù mà làm chi. 

Điều kiện sống mất vệ sinh 
Vệ sinh trại: Chật chội, ngột ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước, nhiều khi có chuột bọ chết thối trong giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất…
"Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó, mệt mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa. Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan cho. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần"Tầng Ðầu Địa Ngục - Linh Mục (LM) Nguyễn Hữu Lễ

Nhà cầu nổi
"Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó....Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau... Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc "thi hành nghĩa vụ" của bản năng, nói nôm na là "đi cầu", người tù phải quàng tay ra đằng sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá, người tù không thể giữ ống sát vào mông, tuột tay làm đổ phân tung toé trong buồng.. 
Vì đã làm quen với cuộc sống tù quá ư là chật trội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, không khí không thể lùa vào buồng được. Do đó chúng tôi cứ phải thở ra hít vào buồng phổi mình cái hơi nóng của bầu khí trong buồng mà tôi có cảm tưởng nó đã đặc quánh lại thành một thứ chất dẻo, không còn là ở thể khí nữa"
Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ. 

Lao động quá sức
Tù nhân bị ép buộc phải liên tục "hạ quyết tâm" làm những điều mà trại đặt ra như sau: 
"Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đã khoan hồng tha tội chết cho tôi, lại tập trung tôi lại, tạo điều kiện cho tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân lương thiện. Để đền ơn Đảng, tôi nhất trí:
1-Tích cực học tập cải tạo lao động tốt. 
2-Giải phóng mọi tình cảm gia đình yếu đuối và tình nguyện ở lại trại học tập lao động cho dến khi nào được cách mạng công nhận tiến bộ cho về phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân.
3-Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại. Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi mặt yếu của các bạn cải tạo khác hầu biến trại ta trở thành trại cải tao tiên tiến về mọi mặt.
4-Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại đang còn ý đồ chống phá cách mạng. 
5- Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như một của cách mạng"
. Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học Máu trang 100.
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.Thế là lại được đi lao động để giác ngộ! 
Sau đây là các tiêu chuẩn mà tù nhân phải lao động: Cuốc đất: 150m2/ngày/người; Trồng mì: 5000m2 / 1 ngày/4 người; Khai quang: 300m2/ngày/người; Lấy cây đường kính 30cm, dài 4 thước /hai người một cây, xa 3 cây số đường kính 10 phân, dài 4 thước hai người năm cây một ngày.

Dọa nạt, nhục mạ
"Tao bảo thật với chúng mày ngoài việc lao động như thế có mà ăn cứt, ngày về của chúng mày cũng kéo dài vô tận. Tao đã lên lớp cho chúng mày nhiều lần rồi. Cách mạng không có tình trạng lơ lửng con củ cặc. Một, chúng mày học tập lao động cho tốt để có ngày mà trở về. Hai, bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát chúng mày trong này mất thôi",Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, trang116.
"Các anh là những người có tội. Chính sách 3 năm cải tạo đề ra, nhưng nó không phải là mốc nhất định cho tất cả mọi người! Các anh đừng có giả vờ "nín thở qua sông" để hết cho ba năm thì về. Tôi nói thẳng cho các anh biết, có thể 3 năm cũng có thể 15 hay 20 năm đó!", Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang 439.

Bỏ đói khát 
Có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.
" Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột."Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ trang 378- 379.

Ăn bất cứ thứ gì là thịt
" Nam cầm con rắn dài khoảng 6 tấc, to bằng ngón tay cái, không trắng không đen. Anh tìm sợi dây, buộc đầu con rắn cạp nong treo lên cành cây, rồi dùng lưỡi dao nhỏ cứa xung quanh cổ rắn. Con rắn lắc lư, lắc lư như chiếc que. Tôi không hiểu bằng cách nào Nam lột da con rắn nhanh như vậy. Da rắn vứt xuống suối, dòng nước cuốn đi trong nháy mắt. Nam hạ con rắn xuống mổ ruột, rửa nước suối rối sắt ra từng khúc, bỏ vào lon ghi gô, cho chút bột cà ri mà lúc nào anh cũng mang theo, đổ chút nước, thêm tí muối rồi cho lên bếp lửa. Lát sau, hạ xuống, anh trịnh trọng ngồi trên tảng đá sát dòng suối ăn hết con rắn một cách ngon lành", Tạ Tỵ –Đáy Địa Ngục, tr. 439.

Mỗi bữa hai miệng chén cơm nhỏ gạo mục, cả trăm người chỉ có vài chục con cá ngừ mục thối nấu với rau, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi...Cho ăn để khỏi chết đói, đó là khẩu hiệu của trại.
Có nhiều tù nhân đã nướng sống sít các con sên con ốc rừng mang hàng triệu vi trùng sốt rét hoặc ăn quả sung rừng cho đỡ đói, ăn phải quả độc " đứt thần kinh, sùi bọt mép, lên kinh phong rồi chết"

"Cái lon nhôm sữa bột guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn bạn đồng hành thân thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì "canh có người lái", tù gọi là Protein; con gì cũng qui vào chất thịt, chất protein bổ dưỡng. Tù có câu: "con gì nhúc nhích là ăn được"; rau gì ăn không chết thì ăn"... Nguyễn Chí Thiệp, Trại Tù Kiên Giam.



"Tiêu chuẩn ngừoi phạm kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ". Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó" Nguyễn Chí Thiện - Trại Tù Kiên Giam, trang 35

Thiếu thốn
Chia nhau vài thìa đường: "Anh ta cầm nhanh lấy cái thìa và với một tư thái rất cẩn trọng, anh gom các phần đường đang chia dở và bắt đầu chia lại. Mười người mười phần. Trợ chia thật khéo nhưng cũng thật chậm. Đôi khi tay anh run làm một vài hạt đường rơi xuống miếng giấy dầu, văng dính vào ngón chân anh. Anh vội lấy ngón tay chấm mấy hạt đường ấy và cho lên miệng. Người ta bực mình nhưng người ta không thể giành lại những hạt đường đã dính vào những ngón chân cáu bẩn của kẻ khác. Mỗi người được ba thìa đường sau ba tháng tù", Hà Thúc Sinh - Đại Học Máu, trang 148.
"Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học"Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ.

Hành hạ cơ thể
"Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị "đại ca" ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù. 
Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng "chưởng" tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ hoặc "bẻ ngà" là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặng hơn thì "lấy cấp pha" tức là móc đôi mắt, hoặc " xin cặp nạng" nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được "cất" có nghĩa là giết chết
", Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn hữu Lễ.

"Tên vệ binh hung ác vừa quật roi mạnh hơn vừa chửi rủa thậm tệ:
- Đ.M. chúng mày là đồ tư sản, dưỡng xác quen, làm việc chây lười, không cố gắng, không có kỷ luật gì hết!

Chiếc roi lại tiếp tục rít trong không khí, bay tới tấp vào thân xác ba người tù. Đại đức Thích Thiện Cao bị đòn đau quá chỉ biết rú lên những câu quen thuộc "Mô Phật", rồi nhắm mắt, oằn người lên chịu đựng", Phạm Quang Giai -Lần cuối bên anh, trang 247"

Bắt quỳ để trừng phạt
"Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng "ngụy" vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống! Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đi..."Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, trang 116.

" Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh"Trại Tù Kiên Giam - Nguyễn Chí Thiện, tr 473.

Bệnh xá- Bệnh tật
"Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm vì bị phù do thiếu chất, cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha..."Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, tr. 251.



"Nói là bệnh xá cho xôm trò chứ nơi đây chỉ là một nhà thường có sạp nằm cho bệnh nhân. Lúc tôi đến đây thì đã có hai mươi trại viên đang trị bệnh tại đây. Người tôi bị tê liệt toàn thân do đó những việc vệ sinh cá nhân tôi không làm được, tôi phải nhờ sự giúp đỡ của hai bệnh nhân nằm hai bên tôi. Hai bệnh nhân này không cùng một trại với tôi. 
Một hôm cán bộ bác sĩ đến tận giường tôi đọc lệnh mà nội dung như sau: - Anh Phan Phát Huồn, anh là một tên có nợ máu với nhân dân nhưng đảng và nhà nước ta đã tha tội chết cho anh, anh đau ốm vẫn cho anh nằm ở bệnh xá điều trị, vậy mà anh không biết điều, vi phạm nội quy của bệnh xá bằng cách quan hệ với người khác trại, vậy ngay từ giờ phút này anh phải ra khỏi bệnh xá.
Nói xong ông ta ra lệnh cho y công buộc dây thừng vào hai chân tôi và kéo tôi như một con chó ra khỏi bệnh xá"
AK và Thập Giá - LM Phan Phát Huồn.

"Tại bệnh viện tôi đã nghe nói và chứng kiến những cuộc "căng mùng" ghê rợn. Căng mùng tức là nói đến giải phẫu bệnh nhân. Để tránh ruồi muỗi bu vào lúc giải phẫu, bệnh nhân được đưa vào trong mùng. Vì không có thuốc tê nên người ta cột bệnh nhân vào giường, lại còn có các anh hộ lý đè bệnh nhân xuống để bệnh nhân khỏi vùng vẫy lúc quá đau đớn. Thường thường bác sĩ dùng dao cạo râu để giải phẫu. Bệnh nhân gào thét kêu la thảm thiết, tôi có cảm tưởng là một con lợn đang bị thọc huyết"AK và Thập Giá -LM Phan Phát Huồn. 

"Bệnh nhân bị bệnh gì gã cũng cho uống Xuyên tâm liên. Kiết ly, tiêu chẩy: xuyên tâm liên. Sốt rét sốt nóng: xuyên tâm liên. Ho lao, sưng phổi: xuyên tâm liên.Vì thế rất nhiều bệnh nhân chết oan uổng", Thanh Thương Hoàng, Những Nỗi Đau Đời, trang 51.

Chứng kiến sự hành hạ tù nhân khác
"Vừa dứt câu hỏi, tên vệ binh xuất kỳ bất ý dùng chân móc cú đá hậu vào khuỷu đầu gối của Trác, khiến Trác lao chao. Tên cảnh vệ tiếp theo cái lao chao của Trác bằng một cú đập mạnh báng súng AK vào người Trác, khiến người tù Việt quốc không còn đủ sức đứng vững, cả thân xác ông rơi xuống như quả sung rụng. Trác vừa té sóng soài trên hiện trường sám hối thì liền lúc đó tên này tung người lên dùng một đòn hiểm nhẩy lên đứng trên thân xác của Trác. Các đồng đội của Trác ngồi trong vòng tròn đều nhắm mắt mỗi khi nhìn thấy tên cảnh vệ dùng những cú giầy đinh nện mạnh trên mặt, trên người Trác. Máu bắt đầu chan hòa trên hiện trường sám hối", Phạm Quang Giai, Lần Cuối Bên Anh,trang 165.
"Tiếng kêu rú rùng rợn vẫn không ngớt phát ra từ những căn phòng xung quanh. Phượng vẫn ngồi như chết cứng. Rồi đột nhiên đèn bật sáng chói, nàng thấy mình đang ở trong một căn phòng toàn những dụng cụ tra tấn….Nàng thấy ghê tởm, rồi tự dưng trong nàng nảy ra một ý định tìm cái chết, trước khi bị tra tấn, nàng đang nghĩ…Chợt cánh cửa sau bật mở. Nàng vội ngồi thu người lại sát tường, mắt ánh lên, thấy hai tên chuyên viên tra tấn xốc nách một người đàn ông, kéo sệt trên nền xi-măng. Mặt người đó tím bầm, hai bên mép ứa máu còn chẩy ra ròng ròng, tóc rối bù bết máu, đầu ngoẹo sang một bên, mình trần trụi bê bết máu, chân tay mềm nhũn ra…", Trần Nhu, Địa Ngục Sình Lầy, trang 163.

Cô lập trong hầm đá
"Tên vệ binh hầm hầm đi về phía cửa hầm đá số 5. Hắn tra chiếc chìa khóa vào ổ rồi quay một vòng nghe răng rắc. Hắn kéo chiếc cửa sắt nặng nề ra, để lộ một không gian tối om. Mùi hôi thối từ trong phòng xông ra; đồng thời với tiếng hú ma quái ngân dài lê thê phát ra từ trong long hầm đá, nghe thật ai oán. Tên vệ binh trở lại chỗ Sâm ra lệnh:
-Vũ Sâm! Mày vào hầm đá số 5 để mà tưởng nhớ đến người vợ đẹp của mày.
Sâm lần thần đi thật chậm, tiến vào miệng hầm, rồi cũng thật nhanh, anh lọt hẳn vào bên trong. Vũ Sâm quay người lại nhìn tên vệ binh lần chót trước khi chìm hẳn vào bóng đêm dầy đặc, vu vơ và tăm tối. Cánh cửa sắt đóng lại, tạo thành một tiếng sầm khô khan"
, Phạm Quang Giai, Lần Cuối Bên Anh, trang 43.
Ngoài ra còn nhiều cách hành hạ khác như:
Trói cột với tù nhân khác; nhốt trong thùng sắt, trong túi; đầy ải ngoài nắng, nóng, dưới đèn sáng; bịt mắt; chói cột xuống đất; đá đít, bạt tai; giả xử tử bắt uống những thuốc lạ dìm dưới nước; làm cho nghẹt thở treo lơ lửng trên không; gây tổn thương cho ngọc hành/ cơ quan sinh dục; tạt phân, nước tiểu lên mặt; tra tấn bằng điện; châm chọc kim vào đầu ngón tay, ngón chân; không cho ngủ bỏ cho muỗi, kiến, đỉa cắn...
Những hành hạ trên đưa tới bệnh tật triền miên cho người sống sót.

Kết luận
Liên Hiệp Quốc coi hành hạ tra tấn là bất cứ hành động nào đưa tới đau đớn về thể xác và tâm thần nạn nhân.
Theo cơ quan Ân Xá Quốc Tế, sự tra tấn vẫn còn được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Tra tấn xẩy ra quá thường khiến cho cơ quan này không ước lượng được số nạn nhân mà chỉ nêu ra một số quốc gia áp dụng sự hành hạ này, vì chiến tranh, đàn áp, tiêu diệt chủng tộc.
Các nhà tâm lý xã hội cho hay hành hạ có mục đích làm xáo trộn, hoặc đúng ra là để phá hủy sự liên tục của cuộc sống con người cho tới một mức độ mà sự hồi phục trở nên tốn kém đôi khi không sao thực hiện được. Mà đa số nạn nhân bị đối sử tàn tệ sau đó lại được định cư ở một quốc gia khác như người tị nạn, nên họ gặp nhiều khó khăn hội nhập vào một nền văn hóa với nếp sống mới, ngôn ngữ mới. Ðó chính là trường hợp các cựu tù nhân quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa. 
Nạn nhân sống sót của tù đầy tra tấn có những phản ứng cảm xúc khác nhau tùy theo cá tính và căn bản giáo dục: từ giận giữ, phẫn nộ tới cảm thấy nhục nhã; cảm xúc ngay thẳng chính đáng tới sai trái tội lỗi; tự tin quyết đoán tới tủi thẹn, xấu hổ. Chắc chắn là họ khó mà quên được những vết thương mà người có quyền đã để lại trên cơ thể tâm hồn họ. Những ảnh hưởng này sẽ tồn tại rất lâu, có khi suốt đời. Những hoảng hốt, lo sợ, những trầm buồn, những cơn ác mộng sẽ thường trực đến với họ và có nhiều tác dụng xấu cho đời sống cá nhân cũng như gia đình. Rồi lại còn những suy nhược tim gan tỳ phế vì thiếu ăn, thời tiết khắc nghiệt, lao động khổ sai nơi rùng sâu nước độc. Nhiều ngàn người hiện nay không thi vào quốc tịch mới được vì trí nhớ suy kém, giảm khả năng học ngoại ngữ. Và còn cần sự chăm sóc của giới y tế đồng hương trong nhiều năm còn lại của cuộc đời. 
Giải thích để họ hiểu tại sao hành hạ đã xẩy ra có hy vọng một phần nào mang họ trở lại cuộc sống bình thường. Cũng như một hành động, một lời nói "sorry"(xin lỗi) từ phía chính quyền hiện tại. Như người da trắng đã sorry với nô lệ da đen bị kỳ thị, bóc lột trong thế kỷ trước. Cũng như Giáo hội Công giáo đã nhìn nhận nhiều sai lầm trong quá khứ liên quan tới sự tôn trọng đối với những cá nhân hoặc cộng đồng.
Thế hệ con cháu khi nghe những chuyện đau thương này của cha chú, chắc cũng rùng mình kinh sợ. Kinh nghiệm Holaucost vẫn còn ám ảnh lương tâm loài người sau cả trên nửa thế kỷ. Cũng như thảm cảnh tù đầy "cải tạo" ở Việt Nam vào thập niên 70-80 của thế kỷ vừa qua.
Ghi lại để mà tránh tái diễn. Và nhắc nhở người ta đừng quá ảo tưởng với hào quang chiến thắng bọt nước mà quên sự tàn ác mà mình đã áp đặt lên những anh em cùng chung một bọc, Trăm Con Trăm Trứng Tiên Rồng.


-----------------------------------------

Những Câu Chuyện Tù

Nghe phỏng vấn Thượng Tọa Thích Thiện Minh về chuyện nhà tù Cộng Sản
by Lý Tưởng Người Việt
Tôi và anh quen nhau tại Kiev. Chúng tôi lấy nhau và sinh được hai đứa con tuyệt vời - con trai Andrei và con gái Maia. Lúc đầu, mẹ tôi phản đối kịch liệt quyết định lấy chồng của tôi. Thứ nhất, vì chồng tôi - Hà - là người Việt Nam bán hàng ngoài chợ. Thứ hai, vì anh hơn tôi đến 16 tuổi đời. Nhưng mặc cho những linh cảm của mẹ, chúng tôi đã cùng chung sống với nhau suốt 8 năm trời hòa hợp và hạnh phúc. Hầu như chúng tôi chưa bao giờ có những bất đồng lớn. Chồng tôi rất yêu lũ trẻ và sẵn sàng giúp tôi làm mọi việc trong nhà, từ nấu nướng đến dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống tưởng đâu cứ mãi như vậy. Cho đến một ngày, Hà nhận được tin bố ốm nặng, có thể không qua khỏi. Anh lập tức bay về Việt Nam. Một thời gian sau, anh gọi điện sang và bảo mẹ con tôi sang Việt Nam với anh. Thực tâm tôi không muốn đi cho lắm, vì đường xa mà hai con còn nhỏ - con trai tôi sáu tuổi, còn con gái mới có một năm bốn tháng. Nhưng Hà động viên tôi rất nhiều và nói chỉ ở Việt Nam vài tháng là cùng. Chủ yếu là anh muốn giới thiệu mẹ con tôi với gia đình, họ hàng bên nội. Thế là tôi quyết định lên đường, mang theo hai con mà lòng không hề nghĩ có những gì đang chờ đợi mình ở phía trước.

Ấn tượng về làng quê Việt Nam

Mẹ con tôi sang Việt Nam khi bố chồng tôi đã mồ yên mả đẹp. Ngày đầu ở nhà chồng, chúng tôi đã đưa hai con đi thăm mộ ông nội. Nghĩa địa nằm ngay gần nhà, nhưng thực sự mà nói, nó khác xa với hình ảnh quen thuộc của những nghĩa trang ở Ucraina. Người Việt Nam có một phong tục rất đặc biệt: ba năm sau khi chôn cất người quá cố, họ lại đào lên, lấy xương mang đi chôn lại(!) Lần thứ hai này mới là lần chôn cất vĩnh viễn.

Quê chồng tôi là một ngôi làng gồm khoảng 400 nóc nhà, nằm không xa thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, ở đó không hề có đường ống khí đốt. Mọi người chủ yếu nấu thức ăn bằng bếp rạ. Chỉ có một số gia đình khá giả mới dám nấu ăn bằng bình gas, vì đó là một điều xa xỉ đối với những người nông dân. Dân làng nghèo đến nỗi, khi ai đó mua sắm bất kỳ vật gì cũng đều trở thành sự kiện của cả làng. Làng mạc ở Việt Nam cũng có nhiều điểm giống với làng quê ở Ucraina, chỉ có điều đường xá không trải nhựa, mà đổ bằng bê tông. Có lẽ bê tông chịu nóng tốt hơn so với nhựa đường. Xung quanh mỗi ngôi nhà đều có rãnh thoát nước. Lúc đầu, tôi không hiểu tại sao phải làm như vậy. Sau đó, tôi đã hiểu - vì vào mùa mưa, dù có rãnh thoát nước nhưng nhiều lúc vẫn phải lội nước đến tận đầu gối! Khó chịu nhất là áo quần giặt xong phơi cả tuần cũng chẳng chịu khô cho.

Món bánh xoài

Ngày thứ hai ở nhà chồng, Hà đột ngột tuyên bố rằng chúng tôi sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn. Hành động của anh làm tôi hết sức ngỡ ngàng, vì anh đã tự quyết định mà không hề bàn với tôi lấy một tiếng. Tôi không thể ngờ rằng người chồng đã từng chung sống suốt tám năm trời lại có thể xử sự với tôi như vậy! Ở Việt Nam, anh đã trở thành một con người khác hẳn: anh hầu như không âu yếm, chuyện trò với tôi bao giờ, và thường tự quyết định mọi việc, kể cả những việc có liên quan trực tiếp đến tôi và các con.

Dù rất buồn trước sự thay đổi của Hà, nhưng trong một giai đoạn nào đó, tôi đã buộc mình phải chấp nhận điều đó... Vì dù không muốn, tôi cũng chẳng có con đường nào khác, tiền quay về cũng không có luôn. Nhưng dù sao, trong thâm tâm tôi vẫn luôn hy vọng sẽ thuyết phục được chồng cho mẹ con tôi trở lại Ucraina.

Thật ra, không thể nói là mọi người đối xử không tốt với tôi, nhưng có quá nhiều khác biệt trong cách sống của người Việt Nam và người Ucraina. Chẳng hạn, tôi không thể hiểu tại sao người Việt Nam có thể sống được mà không cần đến các sản phẩm sữa? Bò ở Việt Nam nuôi chỉ để lấy thịt, vì vậy thậm chí mọi người chẳng hề có khái niệm về bơ, sữa hay phó mát gì cả. Con gái Maia của tôi vẫn quen ăn cháo sữa, vì vậy tôi đã phải mua sữa đặc có đường, có lúc cả sữa đậu nành, để nấu cháo cho con. Mẹ chồng tôi không thể hiểu nổi khi thấy tôi cho sữa vào cháo. Có lẽ đối với họ, đó là một món ăn hổ lốn đáng sợ?!

Còn với tôi, có lẽ đáng sợ nhất là nhà trẻ ở quê chồng. Lịch làm việc ở đó đã rất đặc biệt: sáng 5 giờ đưa trẻ con đến (trước khi đến phải cho ăn sáng ở nhà), đến 10 giờ phải đón về cho ngủ trưa ở nhà! Các lớp được phân chia không theo lứa tuổi, mà theo nguyên tắc "ai đăng ký trước vào trước". Vì vậy trong một lớp có thể có cả trẻ sơ sinh mới mấy tháng trời, cùng những cháu đã 5-6 tuổi. Cửa sổ các phòng không đóng bao giờ, cánh cửa ra vào cũng không có luôn. Trẻ nhỏ nằm trên chiếu trải dưới nền nhà, còn lũ lớn hơn thì chạy lăng quăng xung quanh. Nói chung, có người trông hộ trẻ con để bố mẹ đi làm đồng là tốt lắm rồi!

Thời gian đầu, mọi người định dạy tôi làm ruộng, nhưng tôi phải thú thật là chẳng hề có khái niệm gì về công việc đó cả. Tôi cũng đã từng cùng mọi người trong gia đình nhà chồng lội ruộng cấy lúa, nhưng đến khi biết rằng dưới làn nước bùn đỏ quạch đó còn có cả những con rắn nữa, thì tôi phát hoảng. Mọi người thông cảm, không bắt tôi lội ruộng nữa, mà bảo tôi học sử dụng máy tuốt lúa. Nhưng tôi làm chẳng ra hồn, khiến cho mọi người phát chán. Nhiều người trong gia đình, họ hàng nhà chồng tôi tỏ rõ vẻ thất vọng vì sự lóng ngóng trong công việc đồng áng của tôi.

Bù lại thì sự hiện diện của tôi cũng phần nào làm phong phú thêm đời sống dân làng. Nhất là trong công việc bếp núc. Người Việt Nam chỉ quen ăn khoai tây nấu canh, vì vậy, mọi người rất ngạc nhiên trước món khoai tây nghiền do tôi làm ra, khi nếm thử ai cũng khen ngon. Món bánh xèo truyền thống của người Ucraina cũng được đón nhận nhiệt tình (mọi người gọi đó là món bánh mì ngọt). Tôi đã dạy cho mọi người làm một số món ăn như món bít tết và thịt băm viên. Món bánh xèo nhân xoài do tôi "sáng tạo" ra thật sự ngon miệng và hợp khẩu vị nên ai cũng thích.

Ước muốn trở về

Hà tìm được việc làm ở Hà Nội. Anh bỗng dưng sinh ra nghiện cờ bạc, bao nhiêu tiền làm ra đều nướng hết vào trò chơi đỏ đen. Hồi ở Ucraina, tôi chưa bao giờ thấy anh như vậy. Mẹ chồng tôi không biết về điều này, nên sinh ra nghi ngờ tôi giữ hết tiền lương của anh. Từ sự nghi ngờ đó, bà bắt đầu soi mói tôi từng ly từng tý - từ việc tôi mua gói băng vệ sinh, cho đến cái kẹo cho trẻ con, đều bị bà để ý và cự nự vì tốn tiền vô ích. Càng ngày, cuộc sống càng trở nên tồi tệ đến mức ngột ngạt.

Con trai của tôi dù mới 6 tuổi đầu, nhưng đã phần nào hiểu được những gì đang diễn ra xung quanh, có lần nó bảo mẹ dành tiền để về Ucraina. Tôi chỉ còn biết thở dài thương con, vì vé máy bay quay về cho ba mẹ con ít nhất cũng phải hai nghìn đô la, trong khi trong tay tôi không có nổi lấy một trăm! Andrei hứa sẽ giúp tôi kiếm tiền. Những ngày sau đó, con trai tôi đã tự động làm mọi cách, từ câu cá, hái quả mang đi bán, cho đến thu nhặt vỏ chai... để mong kiếm được chút tiền đưa về cho mẹ.

Tôi không có đủ can đảm để tâm sự thật hoàn cảnh của mình với mẹ tôi. Nhưng có một lần, khi đã không thể chịu nổi, tôi viết một bức thư cho bạn gái ở Ucraina, và cô bạn Tania đã kể lại mọi việc cho mẹ tôi. Người nhà và bạn bè tôi bắt đầu tìm mọi biện pháp để giúp mẹ con tôi trở về, thậm chí đã nhờ Bộ Ngoại giao can thiệp qua Đại sứ quán Việt Nam ở Kiev.

Vào một ngày, có một người công an đến nhà và nói có thông tin cần kiểm tra. Tất nhiên, anh ta không nói được tiếng Nga, còn tôi thì chưa đủ vốn tiếng Việt để giải thích cặn kẽ mọi việc. Chồng tôi đã lợi dụng ngay tình thế đó để nói tất cả những gì có lợi cho bản thân anh ta.

Một lần, tôi đã quyết định bỏ trốn. Mang theo hai con cùng một số quần áo, tôi bỏ chạy khỏi nhà mà chẳng biết sẽ đi đâu. Cuối cùng thì chồng tôi đuổi kịp và đưa ba mẹ con lên xe tắc xi. Đến trung tâm Hà Nội, anh ta cho mẹ con tôi xuống xe và bảo: đấy, muốn đi đâu thì cứ đi! Giữa lúc bơ vơ, tôi gặp một người đàn ông tốt bụng, sau khi hỏi han tình cảnh, biết tôi là người Ucraina (người dân Việt Nam rất quý những người từ các nước thuộc Liên Xô cũ), đã cho ba mẹ con tôi ăn và đưa đến đồn công an trình báo. Chồng tôi buộc phải đến đón chúng tôi về, kèm theo lời cảnh cáo của chính quyền: sẽ không để yên, nếu còn xảy ra sự việc tương tự. Sau lần đó, Hà không chỉ lạnh nhạt với tôi, mà cả với các con cũng vậy. Có lúc, cả nhà ăn cơm mà chẳng gọi mẹ con tôi.. Một người chị em của chồng tôi thấy vậy, thương chúng tôi nên đã mang đồ ăn đến cho chúng tôi ăn.

Cuối cùng thì dịp may cũng đến. Ông trưởng phòng lãnh sự Đại sứ quán Ucraina tại Việt Nam đã đến tận nhà thăm mẹ con tôi. Được dịp, tôi đã kể hết với ông về tình cảnh của mình, kể cả việc bị đay nghiến vì mua một tuýp thuốc đánh răng mới, cả việc mẹ chồng tôi giấu kỹ bột giặt, chỉ cấp cho tôi mỗi lần một thìa con! Đến giờ, tôi đã quên mất họ tên của ông, nhưng luôn nghĩ đến ông với lòng kính trọng và biết ơn đặc biệt, vì ông đã quan tâm rất nhiều đến chúng tôi. Ông nói, Đại sứ quán hiện không có tiền để giúp mẹ con tôi, nhưng hứa sẽ giúp đỡ bằng mọi cách. Lần sau đến, ông mang cho chúng tôi rất nhiều thứ, từ bột giặt cho tôi, chiếc xe đạp cho con trai tôi, đến các loại đồ chơi, bánh kẹo, nước ngọt... Thậm chí ông còn cho tôi tiền nữa. Chỉ có điều, sau khi ông về, tôi lại cảm thấy cay đắng hơn bao giờ hết - tôi không phải là một đứa ăn mày, vậy mà đã phải ngửa tay nhận của một người không quen biết từ gói bột giặt trở đi...

Cuộc trở về của Maia

Ông trưởng phòng lãnh sự đã tổ chức một chiến dịch vận động quyên góp tiền trong cộng đồng người Ucraina đang có mặt ở Việt Nam để giúp đỡ ba mẹ con chúng tôi. Ở Kiev, gia đình tôi cũng tìm mọi cách để dồn tiền để gửi sang cho tôi. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của mọi người, chúng tôi đã có đủ tiền để mua vé máy bay về Ucraina.

Gia đình chồng tôi tỏ ra khá hờ hững với việc mẹ con chúng tôi quay về. Có thể, họ thậm chí đã vui mừng vì thoát được một cô con dâu vô dụng như tôi. Tôi đã trở về Ucraina sau 11 tháng trời sống ở Việt Nam như vậy đó.

Tôi và con trai Andrei bay về Kiev, còn con gái Maia phải để lại cho chồng nuôi theo quyết định của tòa. Điều đó làm cho tôi day dứt khôn nguôi. Thậm chí, tôi không biết có khi nào được gặp lại con gái bé bỏng của mình không nữa...

Sự dằn vặt đeo đuổi tôi suốt ba năm trời. Tôi biết, gia đình chồng tôi sẽ không ngược đãi cháu, nhưng dù sao con sống xa mẹ cũng là một điều bất hạnh.

Một lần, Hà gọi điện cho tôi. Anh ta báo tin sắp cưới vợ mới, và vợ sắp cưới của anh ta đang mang thai. Anh ta nói cho phép tôi đón Maia về, nhưng với một điều kiện: phải đưa cho anh ta 3 nghìn đô la! Mặc dù đã từ lâu tôi không còn chút tình cảm nào đối với người đàn ông này nữa, nhưng vẫn hết sức bất ngờ, vì không bao giờ nghĩ anh ta có thể trở nên ích kỷ đến như vậy.

Thế là tôi lại phải đi xin tiền khắp họ hàng, bạn bè một lần nữa. Mỗi người cho tôi từng nào có thể cho được, nhưng gia đình tôi thuộc dạng nhà nghèo, nên cũng chẳng có người quen nào giàu có cả. Kết quả là tôi chỉ có đủ tiền để mua vé máy bay đi và về. Tuy nhiên, tôi không hề tiết lộ với Hà điều này, mà vẫn hứa là sẽ nộp đủ 3 nghìn đô la như anh ta đòi hỏi.

...Khi tôi vừa bước vào nhà, mẹ chồng tôi gần như đổ gục xuống chân tôi mà xin lỗi. Nước mắt bà chảy lã chã trên khuôn mặt già nua. Sau khi tôi rời Việt Nam, bà đã hiểu ra rằng người có lỗi không phải là tôi, mà là Hà. Người con dâu mới không giúp gì được mẹ chồng, thậm chí bà còn phải san xẻ cả số tiền lương hưu ít ỏi của mình cho con trai và con dâu. Mọi việc trong nhà bà vẫn phải tự mình làm hết, mặc dù đã gần 90 tuổi. Mẹ chồng tôi hiểu rằng giữa chúng tôi và bà chỉ có những khác biệt về văn hóa. Giá như không có sự thay đổi của chồng tôi, biết đâu tôi và bà đã trở thành những người thân thật sự trong cùng một nhà, như trong những gia đình bình thường khác?  Hà, chồng tôi, tất nhiên chỉ quan tâm đến tiền. Tôi buộc phải nói dối rằng không tin tưởng vào sự trung thực của anh ta, nên sẽ chỉ giao tiền ở sân bay, khi đã chắc chắn một trăm phần trăm là con gái tôi sẽ cùng tôi quay về Ucraina.

Đến ngày lên đường. Trong xe tắc xi ra sân bay, chồng tôi lại hỏi tiền. Tôi lại hứa sẽ đưa tiền cho anh ta khi tới sân bay. Đến khi hai mẹ con tôi đã vào trong vùng kiểm soát an ninh, Hà còn gọi với theo: "Lena, thế tiền đâu?" Tôi quay lại và... vẫy tay chào từ biệt!

Bây giờ tôi đã thực sự hạnh phúc bên hai đứa con mình. Andrei rất ham bóng đá. Còn Maia đã quen với nhà trẻ mới và dần dần học lại tiếng mẹ đẻ. Chẳng mấy người biết rằng tôi đã từng trải qua một cuộc hôn nhân đặc biệt như vậy.

Elena Elovikova

(Cám ơn Chị M... đã gởi bài này. Thật đáng buồn và xấu hổ cho người Việt bởi vì: ''Một người làm xấu, cả bậu mang dơ!'' như Ông Cha mình dạy.)

Phan Dương Sơn
by Lý Tưởng Người Việt
 alt
Ngày xưa ở xứ Phi Châu
Mẹ người đau khổ khẩn cầu Chúa thương
Nguyện cầu liên lỉ canh trường
Hơn mười năm lẻ đau thương khổ sầu

Ngày đêm bền chí nguyện cầu
Bởi con đi lạc vào sâu đường tà
Cầu xin Chúa cứu con ra
Người mẹ là Mo-ni-ca hiền từ

Khổ sầu vì đứa con hư
Yêu thương con quá đến nhừ người ra
Thế rồi ơn Chúa ban ra
Người con bà đã cải tà quy y

Chẳng còn bướng bình chai lỳ
Cuộc đời thấy lắm diệu kỳ đẩy xô
Anh chàng Au-gus ti nô
Tìm ra "Chân Lý" trầm trồ ngợi ca

Mẹ chàng xưa đã nói qua
Những lời Thiên Chúa ban ra cho đời
Nhưng anh nào có nghe lời
Đi theo tà giào tưởng nơi an bình

Bây giờ thức tỉnh tâm linh
Gặp xin giám mục tâm tình ra vô
Đức Cha Thánh Ambrosiô
Sau khi thanh tẩy trầm trồ khen anh

Anh được Thiên Chúa chúc lành
Sau này sẽ được vang danh đất trời
Bao nhiêu giòng lệ đã rơi
Mẹ chàng cảm tạ Chúa Trời cho con

Bao nhiêu năm đã mỏi mòn
Chúa ban nay đã no tròn tâm linh
Đất trời sẽ trổ hoa xinh
Mẹ con thánh hiến đời mình lên Cha

Cùng nhau trở lại quê nhà
Trên đường luôn mãi ngợi ca Chúa Trời
Mẹ con đi đến mỗi nơi
Reo vang Lời Chúa để đời ngợi khen

Lời Ngài sáng tựa ngọn đèn
Sau lên Giám mục, sang hèn kính yêu
Lời ngài để lại rất nhiều
Giúp cho đời, đạo những điều thật hay

Lễ ngài mừng kính hôm nay
Mẹ ngài mừng kính vào ngày hôm qua
Tình yêu Thiên Chúa bao la
Muôn đời con sẽ ngợi ca Danh Người

Hôm nay kính nhớ khắp nơi
Sáng nay nhìn ngắm bầu trời sáng choang
Mẹ con rực rỡ huy hoàng
Chúa ban "Hai Thánh" vinh quanh một nhà.

Trầm Hương Thơ
Kính nhớ 2 Thánh Monica và Augustino.
by Lý Tưởng Người Việt
Tôi sanh ra từ làng quê

Làng Bưng Cầu, xứ Thủ

Ngay từ thuở bé thơ

Nghe mẹ dạy hai điều

Một là không được dối trá

Hai là sống cho có nghĩa, có nhân

Dối trá là nói láo

Lén mẹ đi tắm suối, mắt đỏ chạch

Về mẹ hỏi, vẫu miệng thưa

Hổng có, tui nhậm mắt

Mẹ quơ cái cán chổi lông gà

Đét cho quắn đít

Thấy thằng Cu, con cậu tư nhỏ thó

Ăn hiếp nó, thoi nó chảy máu mủi

Kỳ nầy phải đòn cũng bộn

Nghe mẹ la cũng nhiều

Nè, một roi cho nhớ

Ỷ lớn hiếp nhỏ là không phải lẽ

Em là con cậu tư mà hổng biết thương

Đồ lòng lim, dạ đá

Oánh mấy roi cho chừa

Nói là một roi, hai roi

Kỳ thật là lu bù, nứt đít

Nước mắt bu lu bù loa

Chấp tay xin lỗi mẹ

Từ nay con xin chừa

Mẹ nghe vậy cũng thương

Mới dịu dàng giảng giải

Nhân là lòng thương người

Thương người như thể thương thân

Nghĩa là lẽ phải ở đời

Xóm riềng đối đãi nhau

Bằng tình thương và lẽ phải

Tình làng, nghĩa xóm ấm êm

Vẹn bề tình, nghĩa

Ngày nay thân lưu lạc xứ người

Nhớ lời mẹ dạy năm xưa

Lời mẹ dạy, tiếng còn vẳng đưa

Hình hài mẹ, ngày nay không còn nữa



Nguyễn Nhơn

( Vu Lan nhớ Mẹ )