Tưởng Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (1929-2007)

Thứ Hai, 5 tháng 8, 2013 by: Lý Tưởng Người Việt

ngoquangtruong
Tháng 8, 1969: Trong một buổi thuyết trình dành riêng cho đại sứ Hoa Kỳ ở Lào,  G. McMurtrie Godley, đại tướng tư lệnh MACV, Creighton Abrams, nói về tình hình  quân sự và tình hình của các đơn vị chủ lực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).  Về Vùng I, tướng Abrams nói, "Chúng ta có Sư Đoàn 1 ở đây. Sư đoàn này có 17  tiểu đoàn tác chiến. Đây là sư đoàn loại hạng nhất; sư đoàn có những quân nhân  thượng thặng trên cả nước. Đơn vị có cấp chỉ huy giỏi, từ tiểu đoàn trưởng cho  đến tư lệnh sư đoàn. Người tư lệnh sư đoàn -- tôi không nghĩ QĐVNCH có một người  tư lệnh như ông ta; giỏi về chiến thuật; một người dẫn đầu làm gương.

Hơn một năm sau, tháng 10 năm 1970, trong buổi thuyết trình dành riêng cho giám  đốc CIA, Richard Helms, đại tướng tư lệnh phó MACV, Frederick Weyand, nói,  Trưởng ... tôi không cần phải nói nhiều về ông ta vì khả năng của ông đã được  biết. Từng là tư lệnh Sư Đoàn 1, nếu nói về cấp số quân, ông ta đã chỉ huy hơn  hai sư đoàn. ... Lâu nay ông đã chứng tỏ được khả năng chỉ huy; không ai lung  lay ông được. Từ lúc xuống coi Vùng IV, với cá tính năng động, ông đã đề ra  những kế hoạch ưu tiên phải thực hiện -- ông đã đem lại nhiều phấn khởi cho Vann  [John Paul Vann, chỉ huy trưởng Xây Dựng và Phát Triển Nông Thôn, Vùng IV] và  McCrown [thiếu tướng Hal D. McCrown, cố vấn trưởng Vùng IV] ngoài sức tưởng  tượng.
Người chỉ huy trưởng Sư Đoàn 1 và vị tư lệnh Quân Đoàn IV được nhắc đến, là  trung tướng Ngô Quang Trưởng, cựu tư lệnh Quân Đoàn IV, và sau đó, Quân Đoàn I.  Trung tướng Trưởng đã từ trần ngày 22 tháng 12, 2007, tại Fairfax, Virginia,  hưởng thọ 77 tuổi.
Lời bình phẩm của hai vị đại tướng Abrams và Weyand, là hai trong nhiều lời bình  phẩm và khen ngợi về khả năng chỉ huy của tướng Trưởng, đến từ nhiều sĩ quan cao  cấp Hoa Kỳ trong thời gian họ phục vụ ở Việt Nam. Một trong những lời ca tụng  cao quý nhất dành cho tướng Trưởng đến từ Tham Mưu Trưởng Liên Quân Earl  G.Wheeler. Tháng 7, 1969, trong cao điểm của chương trình Việt Nam Hóa, tướng  Wheeler đến Việt Nam thăm viếng và hội thảo với đại tướng Cao Văn Viên. Khi nói  về chương trình gia tăng quân số cho QLVNCH, tướng Wheeler nói ý nghĩ của ông  với tướng Viên: cách gia tăng nhanh chóng sự hữu hiệu của QLVNCH là không phải  tạo ta thêm nhiều đơn vị mới, mà là tạo thêm ra nhiều anh hùng trong đơn vị.  Giống như ở Sư Đoàn 1, một sư đoàn đang hoạt động rất hữu hiệu. Cái quý trọng  đáng nói về những lời khen ngợi này, là tất cả cuộc đối thoại nói về tướng  Trưởng đều xảy trong vòng bí mật giữa các tướng lãnh cao cấp Hoa Kỳ; họ nói về  tướng Trưởng trong vòng kín đáo riêng tư chứ không phải những lời khen thưởng,  khích lệ tinh thần ngoài công cộng Đó là vinh dự cho một vị tướng mà theo lời  của đại tướng Norman Schwarzkopf -- người đã gọi tướng Trưởng là bậc thầy --  không cao lớn, không đẹp trai ... không có vẽ gì là một thiên tài quâ bậc sự.
Ngô Quang Trưởng sanh ngày 19-12-1929, tại Giao Thanh, tỉnh Bến Tre, trong một  gia đình được coi là khá giả ở miền Nam. Sau khi hoàn tất bậc trung học ở trường  Trung Học Mỹ Tho, ông gia nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ra trường tháng 6  năm 1954, tân thiếu úy Ngô Quang Trưởng đậu hạng 162 trên 1148 tân sĩ quan của  Khóa 4. Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (ra trường cùng thời gian với khóa 10  trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt) là một trong những khóa sĩ quan đông nhất và đào  tạo nhiều sĩ quan sau này là rường cột của QLVNCH. Cùng khóa 4 với tướng Trưởng  là các tướng Bùi Thế Lân, Lê Quang Lưỡng, Hồ Trung Hậu, Nguyễn Văn Điềm, Vũ Văn  Giai. Những người bạn cùng khóa còn lại là những sĩ quan chỉ huy trưởng quan  trọng của các sư đoàn, lữ đoàn, như Nguyễn Trọng Bảo, Liêu Quang Nghĩa, Tôn Thất  Soạn, Nguyễn Thu Lương, Nguyễn Thế Lương, Hoàng Tích Thông, Lê Cảnh Dị, Phạm Hy  Mai, Nguyễn Viết Cần. … Một số những sĩ quan nói trên hoặc đã hy sinh vì tổ quốc,  hoặc đã trải qua một thời gian dài đầy cay đắng trong lao tù cộng sản chỉ vì có  tội trung thành với tổ quốc của họ.
Ra trường, tướng Trưởng chọn binh chủng Nhảy Dù, và được chỉ định về phục vụ ở  tiểu đoàn 5, tiểu đoàn mà chưa đến một năm trước đó đã chiến đấu đến viên đạn  cuối cùng; tiểu đoàn của đại úy Phạm Văn Phú, của những đồi Eliane, Dominique, ở  Điện Biên Phủ. Trừ cấp bực đại úy được chánh phủ thăng thưởng chung cho nhiều sĩ  quan có thâm niên quân vụ đến thời gian đó (1 tháng 11,1961), tất cả cấp bực về  sau, tướng Trưởng được đặc cách ngoài mặt trận, hay được đính thân tư lệnh chiến  trường, tư lệnh quân đội, vinh thăng. Vinh quang đầu tiên của tướng Trưởng xảy  ra vào cuối tháng 2 năm 1964, khi tiểu đoàn 5 của Nhảy Dù đánh vào mật khu Đỗ Xá  (Đỗ Xá là một địa danh nằm ngay biên giới của ba tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Tín và  Kontum), ở Vùng I. Với chiến thắng này, cố đại tướng Đỗ Cao Trí (lúc thiếu tướng  Trí coi Vùng I) đích thân đặc cách thiếu tá nhiệm chức cho tướng Trưởng. Đầu  tháng 6-1964, ông được lên thiếu tá thực thụ -- một cấp bực rất hiếm trong những  năm đó cho một sĩ quan với mười năm quân vụ.
Sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11, năm 1963, trong khi thủ đô Sài Gòn sôi sục với  những biến động chính trị, thì những người quân nhân thuần túy vẫn thi hành  nhiệm vụ của họ ở chiến trường. Hoạt động của cộng sản gia tăng mạnh. Với những  yểm trợ vũ khí và huấn luyện của các đơn vị chánh quy xâm nhập từ miền Bắc vào,  Việt Cộng bây giờ đã có đủ quân và vũ khí để đánh cấp trung đoàn nếu không nói  là sư đoàn.
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, sau khi phục kích và đánh thiệt hại hơn ba phần tư  tiểu đoàn 4 TQLC và một tiểu đoàn Biệt Động Quân ở Bình Giả, Phước Tuy, cộng sản  tụ quân lại chung quanh địa cứ đó để biểu dương lực lượng. Bộ Tổng Tham Mưu lập  tức khởi động chiến dịch Nguyễn Văn Nho, cho hai tiểu đoàn Nhảy Dù, ba tiểu đoàn  TQLC và một chi đoàn thiết giáp trở lại Bình Giả truy lùng các đơn vị cộng sản.  Nhưng khi thấy lực lượng hùng hậu đó, các đơn vị cộng sản lẫn tránh giao tranh.  Nhưng cùng lúc, theo tin tức tình báo đến từ thiếu tá Lê Đức Đạt, tỉnh trưởng  Phước Tuy, cộng sản sẽ đem ba cố vấn Mỹ mà họ bắt được trong trận Bình Giả trước  đó, diễn hành như một chiến thắng cho dân chúng địa phương coi (trong trận Bình  Giả, Hoa Kỳ có 5 tử trận, 8 bị thương, và 3 mất tích). Tin tức này cũng được  MACV xác nhận: MACV cho biết máy bay thám thính xử dụng hồng ngoại tuyến đã chấm  được tọa độ đóng quân của cộng sản ở chung quanh xã Bình Giả và Hắc Dịch (Bình  Giả, Bình Ba, Ngãi Giao và Hắc Dịch, là bốn xã tạo thành Tổng Cơ Trạch. Tổng là  một đơn vị hành chánh cho một vài vùng lúc đó. Có nhiều sách địa lý gọi là Hác  Dịch). Với tin tức cung cấp, Sài Gòn quyết định trở lại truy lùng các đơn vị còn  lẩn quẩn chung Bình Giả thêm một lần nữa. Lần này lực lượng tấn công là ba tiểu  đoàn Nhảy Dù. Ngày 9 tháng 2-1965, tiểu đoàn 5 của Ngô Quang Trưởng; tiểu đoàn  6, Vũ Thế Quang; và tiểu đoàn 7, Ngô Xuân Nghị, nhảy vào Hắc Dịch. Tiểu đoàn 5  và 6 là lực lượng chánh tấn công, tiểu đoàn 7 đi sau lưng để yểm trợ và chận  không cho các đơn vị cộng sản thoát ra liên tỉnh lộ 15. Theo đại tá Nguyễn Thu  Lương kể lại -- lúc đó là đại úy đại đội trưởng tham dự cuộc hành quân -- khi  tiểu đoàn 5 đã nhận ra và tiến về mục tiêu là một ngôi làng có tên là Phước Chi,  cộng sản cho đốt rừng tre và cỏ tranh trước mặt hướng tiến quân. Họ hy vọng khi  lính Dù thấy lửa cháy trước mặt thì sẽ quay đầu lại tìm hướng khác tấn công ...  và cộng quân sẽ bất ngờ phục kích khi lính tiểu đoàn 5 đi ngược lại. Nhưng tiểu  đoàn trưởng Ngô Quang Trưởng không cho lính quay lại: ông ra lệnh xung phong  thẳng qua thế hỏa công của địch, đánh thẳng vào bộ chỉ huy cộng sản trước mặt, ở  phía sau đám lửa đốt ngụy công đó. Và kết quả của trận chiến? Theo tiểu đoàn  trưởng Vũ Thế Quang, ... Ông Trưởng đã đánh một trận để đời; đánh tan lực lượng  Việt Cộng ở Hắc Dịch. Và tên ông Trưởng được nhắc đến nhiều từ trận đó. Theo báo  chí Hoa Kỳ tường trình lại, trong trận này, tướng Truởng và lính tiểu đoàn 5 Dù  đã cứu được vị đại úy Mỹ cố vấn tiểu đoàn. Đại úy Thomas B. Throckmorton là con  trai của trung tướng John L. Throckmorton, tư lệnh phó cho đại tướng William  Westmoreland, đương kim tư lệnh MACV. (Cũng muốn nói thêm ở đây, tướng Trưởng  hình như có duyên với những sĩ quan Mỹ cố vấn cho ông: Trong thời gian ở Sư Đoàn  Nhảy Dù, ba người cố vấn đều là con của tướng hay là trở thành tướng của quân  đội về sau. Sau đại úy Throckmorton là thiếu tá Schwarzkopf. Thân phụ của  Schawarzkopf là chuẩn tướng; và chính ông thì trở thành đại tướng. Sau  Schwarzkopf là thiếu tá Guy S. Meloy, III. Cha của Meloy lúc đó là đại tướng ở  Mỹ; và Meloy sau này cũng trở thành một vị tướng, coi Sư Đoàn 82 Nhảy Dù trước  khi về hưu.)
Nhưng cũng theo đại tá Quang, chiến thắng của Nhảy Dù, của tiểu đoàn 5, không  được báo chí loan tin, hay nhắc đến rầm rộ, vì những biến động chính trị ở Sài  Gòn đã lấy đi tất cả sự chú ý lúc đóù. Nhận định và quan sát của đại tá Quang về  chiến thắng bị bỏ quên của tướng Trưởng không xa sự thật. Tháng 2 của năm 1965  là một tháng đầy biến động ở miền Nam: Tướng Nguyễn Khánh vừa bị Hội Đồng Quân  Nhân hạ bệ và muốn ông ta rời khỏi Việt Nam; nội các của thủ tướng Trần Văn  Hương thay đổi nhân sự tới lui và có thể bị thay thế. Năm 1964-65 là năm mà  trung úy TQLC Trần Ngọc Toàn -- người đã thoát chết trong trận Bình Giả -- gọi  là năm của những sĩ quan cao cấp ngồi ở nhà tranh luận và bảo vệ vị thế chính  trị cá nhân, trong khi các sĩ quan cấp nhỏ thì đang chết ở chiến trường bảo vệ  họ; năm 1964-65 có nhiều đảo chánh - hay tin đồn đảo chánh -- đến độ tác giả  Nhảy Dù Phan Nhật Nam, khi cho người lính trong trung đội vắng mặt một chút,  nhưng căn dặn phải trở lại đơn vị ngay khi nghe nhạc đảo chánh trổi lên trên đài  phát thanh. Trong khi tờ tường trình về chiến thắng Hắc Dịch chưa kịp gởi về Hoa  Thịnh Đốn, thì Hoa Thịnh Đốn đã quan tâm, lo lắng, về những thiệt hại ở trận  Bình Giả, và họ chuẩn bị gởi quân tác chiến qua Việt Nam, dựa vào tờ tường trình  của CIA gởi về Hoa Thịnh Đốn hai tuần trước. Nhưng cũng có thể, trong tuần lễ  thứ nhì của tháng 2 năm đó, QLVNCH đang hân hoan về một chiến thắng khác lớn hơn,  quan trọng hơn: ngày 16 tháng 2, ở Vũng Rô, Phú Yên, Không Quân VNCH đã đánh  chìm một chiếc tàu sắt, chở hàng trăm tấn vũ khí từ miền Bắc vào tiếp tế cho  cộng sản ở miền Nam. Với số vũ khí tịch thu được ở Vũng Rô, sự quên lãng của báo  chí về trận Hắc Dịch có thể hiểu được.
Chưa nhạt mùi thuốc súng ở Vùng III, tháng 3-1965, tướng Trưởng đem tiểu đoàn  trở lại Vùng I đánh trận Thăng Bình. Chiến thắng ở Thăng Bình có sự quan sát của  một sĩ quan sau này trở thành đại tướng: Norman Schwarzkopf. Tướng Schwarzkopf  lúc đó là thiếu tá cố vấn của tiểu đoàn. Hai mươi năm sau, sau khi cuộc chiến đã  tàn; miền Nam đã thất thủ, tướng Schwarzkopf vẫn không quên ấn tượng ông thấy,  và bài học ông học được về lối điều binh của tướng Trưởng. Năm 1995 khi tướng  Schwarzkopf trở lại Việt Nam thăm chiến trường cũ, ông có thực hiện một chương  trình truyền hình cho một hãng thông tấn. Chiếu lại địa hình của trận Thăng Bình  ông nói, khi tiểu đoàn lọt vào địa cứ của cộng sản, quân địch tràn ra đánh. Tiểu  đoàn 5, dù bị thiệt hại, nhưng họ chấp nhận và tiếp tục xung phong và chiếm được  mục tiêu.... Lính của tướng Trưởng đánh như để thử thách đối phương; để chứng tỏ  họ không sợ đối phương (trong trận này, y sĩ tiểu đoàn là bác sĩ Đỗ Vinh bị tử  trận. Bệnh viện Nhảy Dù Đỗ Vinh là tên của vị y sĩ này). Nhưng sự khâm phục của  một vị tướng tương lai không quan trọng bằng sự hài lòng của một vị tướng đang  quan sát mặt trận: Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi đang là tư lệnh Vùng I. Với tiểu  đoàn chiến thắng là tiểu đoàn cũ của mình 10 năm trước (tướng Thi coi tiểu đoàn  5 Nhảy Dù tháng 5-1955), tướng Thi đặt cách cho tướng Trưởng lên trung tá.
Lên trung tá trong những năm của thập niên 1960 là niềm vui, một sự hãnh diện,  nếu người đó không còn thích làm tiểu đoàn trưởng hay thích đi tác chiến. Vào  thời đó, tiểu đoàn trưởng -- commandant; chef de bataillon; hay chef d'escadron  -- chỉ là thiếu tá. Trên thiếu tá thì … phải đi tìm một việc khác! Lên trung tá,  tướng Trưởng được gọi về làm tham mưu trưởng sư đoàn. Nhưng làm về tham mưu  không phải là việc làm tướng Trưởng thích. Và ông để lộ ra ý nghĩ đó vài tháng  sau, khi được chỉ định làm tư lệnh phó sư đoàn Nhảy Dù.
Đà Nẳng, tháng 8-1972. Mặc dù đang chuẩn bị kế hoạch tái chiến Quảng Trị, tướng  Trưởng bỏ thì giờ đến chào tiển biệt và gắn huy chương cho các binh sĩ của Sư  Đoàn 23 Bộ Binh (Americal Divison) đang trên đường hồi hương trong chương trình  Việt Nam Hoá.
Giữa tháng 5 năm 1966 một biến cố xảy ra làm thay đổi cuộc đời của tướng Trưởng.  Những biến động đồn dập ở miền Trung gây ra nhiều sự lo âu cho chính quyền trung  ương Sài Gòn. Sài Gòn thay sáu tư lệnh Vùng I trong ba tháng, nhưng tình hình  vẫn không thay đổi. Hội Đồng Quân Nhân quyết định dùng quân đội để tái lập trật  tự. Tướng Trưởng, đang là tư lệnh phó Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của tướng Cao  Văn Viên và đại tá Nguyễn Ngọc Loan, đem năm tiểu đoàn Nhảy Dù và TQLC ra Vùng I  để tái lập trật tự. Sau cuộc hành quân biểu dương thẩm quyền trung ương, tướng  Trưởng được thăng chức đại tá. Từ giai đoạn này đến ngày tướng Trưởng rời binh  chủng Nhảy Dù để về làm tư lệnh sư đoàn 1, chúng ta không biết chuyện gì xảy ra  -- về phương diện tài liệu có được. Chúng ta không biết tướng Trưởng bị hay được  chỉ định thay thế chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, sau  khi tướng Nhuận và một số sĩ quan cao cấp của Vùng I bị đưa ra hội đồng kỷ luật.  Theo những người quen với tướng Trưởng kể lại, tướng Trưởng đã lưỡng lự tạm thời  nhận chức tư lệnh một sư đoàn bộ binh vì ông không muốn rời màu áo của lính Dù.  Tướng Trưởng từ Sài Gòn đi máy bay ra Huế để nhận nhiệm sở mới. Và để giới thiệu  với đơn vị mới cùng người dân địa phương mình là lính Dù, tướng Trưởng nhảy dù  xuống Huế để nhận nhiệm sở. Nhưng nhảy dù biểu diễn đôi khi có nhiều rũi ro hơn  là nhảy dù vào trận địa. Ngày hôm đó chắc trẻ con và dân chúng Huế ở hai bên bờ  sông sẽ reo hò thích thú khi thấy một người lính Dù đáp xuống nước giữa sông  Hương! Theo lời của đại tá Tôn Thất Soạn, lúc đó đang cùng đại tá Nguyễn Thành  Yên chỉ huy các đơn vị TQLC đang có mặt ở Huế, một chiếc thuyền máy chờ sẳn trên  sông chạy đến vớt tướng Trưởng lên. Từ sông Hương, TQLC dùng hai xe Jeep hộ tống  tướng Trưởng vào thành nội Huế để nhận chức tư lệnh đầu tiên của ông.
Trong thời gian chỉ huy Sư Đoàn 1 Bộ Binh, tướng Trưởng được nhiều sĩ quan Hoa  Kỳ chú ý. Trong hồi ký A Soldier Reports, Westmoreland nói ông nhận được nhiều  báo cáo tốt về Sư Đoàn 1 và người tư lệnh. Tướng Westmoreland đi xa hơn khi ông  viết, Nhiều tướng lãnh nói cho tôi biết họ tin vào khả năng của tướng Trưởng đến  độ họ nghĩ ông có thể chi huy một sư đoàn lính Mỹ được. Năm 1999 khi tác giả  Lewis Sorley cho ra tác phẩm A Better War, và sau đó, năm 2004, The Abrams  Tapes, chúng ta mới đọc được nhiều lời bình phẩm về tướng Trưởng giữa các tướng  lãnh cao cấp Mỹ ở bộ tư lệnh MACV. Lý do phải chờ những cuốn sách nói trên ra  đời để biết thêm những nhận nhận định về tướng Trưởng, là vì phần lớn những nhận  định xảy ra trong những cuộc đàm thoại bí mật ở MACV. Hai tác phẩm của nhà quân  sử Sorley phần lớn dựa vào những tài liệu giải mật của bộ tư ng MACV.
Tướng Trưởng được thăng chức chuẩn tướng khi về chi huy Sư Đoàn 1. Sau trận Mậu  Thân 1968, tổng thống Thiệu thăng cấp tướng cho một số tướng lãnh -- một số  tướng vì có công trạng, và một số tướng được thăng chức để củng cố thế lực của  tổng thống Thiệu trong quân đội. Chuẩn tướng Trưởng có tên trong danh sách được  thăng thưởng. Tướng Trưởng mang lon thiếu tướng vào mùa thu năm 1968. Mùa xuân  năm 1970, khi QLVNCH chuẩn bị đánh qua Cam Bốt, trong một lần nói chuyện giữa  tổng thống Thiệu và đại tướng Abrams, ông Thiệu nói với tướng Abrams là ông muốn  thay đổi một số tư lệnh sư đoàn và quân đoàn, và theo ý kiến của tướng Abrams  thì ai xứng đáng cho những chức vụ tư lệnh mới. Đại tướng Abrams nói ông không  hiểu hay biết nhiều về tâm lý người Việt Nam. Nhưng với tất cả sự thiếu hiểu  biết của một người Mỹ, ông nghĩ tướng Trưởng là người xứng đáng nhất; một người  tướng có khả năng về mọi mặt, nhất là về bình định nông thôn, một một chương  trình mà chính phủ VNCH cần phải thực hiện nhanh. Trước đó, trong một lần nói  chuyện với đại tướng Cao Văn Viên, tướng Abrams có so sánh lối chỉ huy của tướng  Trưởng với lối chỉ huy của một vị tướng tư lệnh sư đoàn khác cũng có khả năng  như tướng Trưởng. Nghe xong, tướng Viên giải thích cho tướng Abrams về sự khác  biệt giữa hai ông tướng: khi tướng Trưởng ra một quân lệnh nào đó, ông sẽ đích  thân đi ra các cấp đơn vị từ nhỏ đến lớn để coi lệnh của ông có được thi hành  không; trong khi người tướng kia thì chỉ để cho sĩ quan dưói quyền hành sự. Sau  này, qua những gì sĩ quan báo cáo lại, Tướng Abrams nghĩ nhận sét của đại tướng  Viên là đúng. Và sau này, vào năm 1972, khi tướng Trưởng ra chỉ huy Vùng I, hai  người cố vấn Mỹ ở quân đoàn đều thấy lối làm việc của tướng Trưởng: quân lệnh  lúc nào cũng đi kèm với sự hiện diện của ông ở mọi cấp của đơn vị. Trong khi  tổng thống Thiệu còn đang lưỡng lự với quyết định chọn lựa các tuưlệnh quân đoàn,  thì một biến cố xảy đến bắt ông phải quyết định: Ngày 20 tháng 5-1970, thiếu  tướng Nguyễn Viết Thanh, tư lệnh Vùng IV bị tử nạn trực thăng trong cuộc hành  quân đánh qua Cam Bốt. Tổng thống Thiệu bổ nhiệm thiếu tướng Ngô Dzu thay cố  trung tướng Thanh ở Vùng IV. Nhưng chỉ ba tháng sau, vì một lý do nào đó, tổng  thống Thiệu đưa tướng Dzu lên coi Vùng II, và chỉ định thiếu Trưởng về Vùng IV.
Vùng IV tương đối được yên tỉnh trong thời gian tướng Trưởng ở Vùng IV. Trong  thời gian này ông đã khích động tinh thần của binh chủng Nghĩa Quân và Địa  Phương Quân -- một binh chủng cho đến thời gian đó gần như bị bỏ quên trong cấp  số của QĐVNCH. Ông cố gắng hiện đại hóa binh chủng này, và tuyên bố, trên đường  dài của cuộc chiến, Nghĩa Quân và Địa Phương Quân sẽ là lực lượng rường cột của  quân đội trên đường dài. Mùa hè năm 1972 chứng minh nhận định của tướng Trưởng:  trong cao điểm của cuộc tổng tấn công vào miền Nam, từ ngày 1 tháng 4 đến ngày  10 tháng 6, các đơn vị chủ lực của QLVNCH bị thiệt hại 23 ngàn quân, so với 14  ngàn của Nghĩa Quân và Địa Phương Quân. Phần lớn 14 ngàn thương vong này xảy ra  ở Vùng IV. Trong thời gian ở Vùng IV, ông cũng phát động nhiều cuộc hành quân  vào các chiến khu mà từ trước được coi là vùng bất khả xâm phạm của cộng quân.  Đầu năm 1971, ông ra lệnh cho trung đoàn 33/ Sư Đoàn 21, vào chiếm chiến khu U  Minh Thượng và lập nhiều đồn bót ở đó. Khi đại sứ Bunker xuống viếng thăm, ông  hỏi tướng Trưởng sẽ định đóng quân ở mật khu U Minh Thượng đó bao lâu, Ở lại  luôn, tướng Trưởng trả lời. Ngoài mật khu U Minh Thượng, hai Sư Đoàn 7 và 9 của  quân đoàn cũng tấn công và thiết lập sự hiện diện thường trực ở các mật khu Thất  Sơn, Đầm Dơi, và Đồng Tháp.
Nhưng sự bình yên của Vùng IV không kéo dài để tướng Trưởng hưởng thụ những  thành quả, hay tiếp tục thực hiện những kế hoạch mà ông dự định cho Vùng IV. Mùa  xuân năm 1971 ông nghe ngóng tin tức của cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh qua Lào  với nhiều lo lắng. Năm đó ông cũng rất buồn khi tiễn đưa một chỉ huy trưởng cũ  ra đi vĩnh viễn: trung tướng Đỗ Cao Trí, cựu tư lệnh Nhảy Dù bị tử nạn trực  thăng vào ngày 23 tháng 2-1971, trong khi chỉ huy quân của Vùng III đánh qua Cam  Bốt lần thứ hai. Ngoài tướng Trí, ông cũng mất một số bạn bè Nhảy Dù ở Hạ Lào.
Thứ Năm, 30, tháng 3-1972, cộng sản tấn công qua vùng quân sự ở Vùng I. Vài ngày  sau, các cuộc tổng tấn công cũng bắt đầu ở Vùng II và III. Ở Vùng IV, cộng quân  đã có nhiều hoạt động chuẩn bị cho cuộc tổng công kích từ giữa tháng 3. Theo lời  tướng Trưởng kể lại, công quân di chuyển Sư Đoàn 1 và chừng sáu trung đoàn đoàn  độc lập khác ra khỏi căn cứ của để chuẩn bị tiến về mục tiêu. Trong suốt tháng  4, cộâng quân tấn công vào 5, 6 tỉnh của Vùng IV, nhưng các cuộc tấn công không  đủ mạnh để gây lo lắng cho QLVNCH như họ đang lo lắng cho ba Vùng còn lại, nhất  là Vùng I. Ngày 2 tháng 5-1972, Quảng Trị thất thủ. Ngày hôm sau, 3 tháng 5,  tổng thống Thiệu triệu tập các tư lệnh Vùng về họp ở dinh Độc Lập. Trong buổi  họp tổng thống Thiệu chỉ định thiếu tướng Trưởng ra thay tướng Hoàng Xuân Lãm ở  quân đoàn I với chức trung tướng tư lệnh quân đoàn. Đúng một tuần sau, tổng  thống Thiệu chỉ định thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn -- đang là tư lệnh phó cho  tướng Trưởng -- về thay trung tướng Ngô Dzu ở quân đoàn II.
Tướng Trưởng bay ra Huế cùng ngày nhận được lệnh. Khi đến Huế thì tình hình Vùng  I đã bi quan rồi. Chúng ta có thể thay chữ bi quan bằng chữ bi đát ở đây. Ngày  hôm sau, ông ra lệnh lập bộ tư lệnh tiền phương của quân đoàn ở hướng bắc thành  phố Huế. Đồng thời ông ra lệnh tất cả các quân nhân đang đi lạc khỏi đơn vị, hay  không còn đơn vị để trở về, phải tìm cách trình diện thẩm quyền quân sự lập tức.  Mọi sự bất tuân thượng lệnh sẽ bị trừng phạt ngay tai chổ. Sau khi phân chia  vùng trách nhiệm tác chiến cho các đơn vị đa được ổn định, tướng trưởng tái huấn  luyện, tái trang bị lại cho các đơn vị bị tan rã một tháng trước đó. Trong khi  chờ đợi các đơn vị hoàn phục lại sức tác chiến, ông xử dụng hỏa lực của hải quân  và không quân Hoa Kỳ để phá hủy các điểm tập trung quân của cộng sản. Trong  tháng 5, sau khi được bộ tổng tham mưu tăng viện cho hai lữ đoàn Dù, tướng  Trưởng bắt đầu chuyển từ thế phòng thủ qua thế tấn công giới hạn. Tấn công giới  hạn ở đây có nghĩa là ông dùng trực thăng vận để bất thần đột kích sau lưng  những đơn vị cộng sản. Với không vận cung cấp từ TQLC Hoa Kỳ, tướng Trưởng cho  những tiểu đoàn của TQLC và Sư Đoàn 1 đột kích sau lưng địch. Hai tiểu đoàn của  lữ đoàn 369 nhảy vào Hải Lăng; Lữ đoàn 147 vừa đổ bộ bằng tàu lên Mỹ Thủy, vừa  đổ bộ bằng trực thăng vào Cổ Lũy. Sau những lần đột kích như vậy, TQLC hoàn tất  nhiệm vụ và trở lại truyến bạn một cách an toàn. Cùng lúc, Sư Đoàn 1 bất thần  nhảy vào chiếm lại căn cứ hỏa lực Bastogne, rồi từ đó chiếm lại luôn căn cứ  Checkmate. Đây là hai cao điểm quan trọng bảo vệ hướng tây nam của Huế. Cuối  tháng 5, Sài Gòn cho tướng Trưởng thêm lữ đoàn 1 Dù. Như vậy Vùng I bây giờ có  được hai sư đoàn tổng trừ bị đủ và ba sư đoàn bộ binh thiếu. Tình hình cuối  tháng 5 ở Vùng I sáng sủa hơn hai tháng trước. Ngày 28 tháng 5, trước cửa Ngọ  Môn Huế, tướng Trưởng chứng kiến người bạn cùng khoá, đại tá TQLC Bùi Thế Lân,  được tổng thống Thiệu gắn cho ngôi sao chuẩn tướng trên vai. Để đáp lại sự khen  thưởng đó, tướng Lân thề sẽ lấy lại Quảng Trị.
Cuối tháng 6, khi thấy mình có đủ quân và khả năng để lấy lại Quảng Trị. Ông  soạn thảo một kế hoạch và trình về Sài Gòn; cùng lúc ông cho MACV một bản sao  của kế hoạch hành quân. Vài ngày sau, trước khi Sài Gòn trả lời, MACV đã trả lời,  nói với ông là chưa đến lúc. MACV đề nghị ông tiếp tục đột kích và chờ một thời  gian nữa. Thất vọng vì kế hoạch không được chấp nhận, tướng bay về Sài Gòn đích  thân tường trình kế hoạch cho tổng thống Thiệu. Theo những gì tướng Trưởng viết  lại trong tác phẩm The Easter Offensive of 1972, sau khi nghe kế hoạch của ông,  tổng thống Thiệu -- cũng có thái độ như MACV - ra lệnh cho ông chờ thêm một thời  gian nữa. Trong lúc này chỉ nên tấn công phá rối và đột kích như đang làm. Bực  tức trong sự yên lặng, tướng Trưởng gom bản đồ lại và bay trở về bộ tư lệnh. Sau  một đêm mất ngủ, sáng sớm hôm sau ông gọi điện thoại cho trung tướng Đặng Văn  Quang, cố vấn an ninh quốc gia cho tổng thống Thiệu. Ông nói: Tôi sẽ không đệ  trình thêm một kế hoạch nào nữa. Nếu họ muốn tôi thi hành ra sao thì nên đưa cho  tôi một bản kế hoạch bằng tiếng Việt, và tôi sẽ thi hành. Những chữ nghiêng  trong câu trích dẫn là do người viết đánh dấu. Người viết muốn nhấn mạnh những  chữ đó, vì đây là một câu nói bí mật, khó hiểu. Phải chăng người Mỹ đã làm áp  lực với tổng thống Thiệu và không cho tướng Trưởng đánh trong thời gian đo,ù hay  đánh theo ý của QLVNCH? Qua những tài liệu của MACV được giải mật sau này, trong  khoảng thời gian từ 1 đến 24 tháng 6, tình hình Vùng I và tên của tướng Trưởng  được nhắc đến nhiều lần. Những tài liệu mật cho thấy MACV không nói gì đến kế  hoạch phản công chiếm lại Quảng Trị, nhưng có vài đọan chúng ta đọc thấy MACV và  chính tướng Abrams lo ngại Quân Đoàn I không đủ quân để thực hiện một kế hoạch  đầy tham vọng như vậy. Trong tập hồ sơ giải mật do sử gia Sorley sọan thảo-- và  tướng Trưởng cũng ghi những chi tiết tương tự trong tác phẩm của ông -- đến giữa  tháng 6-1972, Quân Đoàn I chỉ có hai sư đoàn TQLC và Nhảy Dù là đủ cấp số và khả  năng tác chiến. Các đơn vị cơ hữu còn lại của Quân Đoàn - ba sư đoàn bộ binh 1,  2, 3; Lữ đoàn 1 Thiết Kỵ, và Liên Đoàn 1 BDQ - chỉ còn một-phần-ba cấp số và khả  năng tác chiến nguyên thủy. Sư đoàn 3 chỉ còn hai tiểu đoàn tác chiến được; bốn  tiểu đoàn thì đang được tái trang bị và bổ xung. Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ mất hơn 200  xe tăng và thiết vận xa; 10 tiểu đoàn pháo binh cần phải được trang bị lại 100%.  Trong một buổi họp ở MACV ngày 18 tháng 6 (hai ngày sau khi tướng Trưởng đề nghị  kế họach tái chiếm Quảng Trị), một sĩ quan sau khi tường trình về tình hình các  đơn vị ở Vùng I, nói tướng Trưởng cần phải có hơn hai sư đoàn Nhảy Dù và TQLC  nếu muốn tái chiếm Quảng Trị; ông không biết số quân cần thêm đến từ đâu, nhưng  phải có nếu tướng Trưởng muốn thực hiện kế hoạch hành quân. Cũng trong buổi họp  này, sĩ quan thuyết trình nói đến vấn đề tiếp liệu đạn đại bác cho Vùng I. Đại  bác 105 ly được giới hạn lại 20 quả cho một khẩu/ một ngày; trong trường hợp cần  thiết 40/ngày. Nếu bắt đầu chiến dịch tái chiếm Quảng Trị, pháo binh có thể xài  120 viên, và có thể 180 viên/ khẩu/ một ngày. … Trong trường hợp đó, Hoa Kỳ có  khó khăn trong việc tiếp tế. Về tướng Abrams, chúng ta đọc được sự lo ngại của  ông về hỏa lực phòng không của địch, nhất là lọai hỏa tiển địa không SA-7. MACV  cho biết địch bắn 14 quả SA-7 và hủy diệt 6 phi cơ. Tướng Abrams nói ông nhấn  mạnh với tưởng Trưởng về sự nguy hiểm của lọai hỏa tiển địa không mới, vì tướng  Trưởng sẽ dùng nhiều trực thăng vận cho cuộc đổ bộ tái chiếm. (Sự lo sợ của  tướng Abrams không phải không có lý. Vì chỉ một tháng sau, trong cuộc đổ bộ  xuống Triệu Phong nằm trong khuôn khổ cuộc hành quân chiếm lại Quảng Trị, hai  chiến trực thăng CH-53 chở quân tiểu đoàn 1 TQLC của trung tá Nguyễn Đăng Hòa bị  hỏa lực phòng không địch bắn rơi. Một trong hai chiếc bị SA-7 bắn nổ tung trên  trời. Thiệt hại quân là hơn 100 tử thương từ hai chiếc. Đó là tất cả những gì  chúng ta biết về MACV và tướng Trưởng vis-a-vis cuộc hành quân tái chiếm Quảng  Trị. Dĩ nhiên đó là những gì đã được giải mật; những gì chưa được giải mật chúng  ta chưa biết được.
Chín giờ sáng hôm sau tổng thống Thiệu gọi điện thoại và yêu cầu tướng Trưởng  trở lại trình bày lại kế hoạch một lần nữa. Lần này tổng thống Thiệu chấp nhận  kế hoạch hành quân tái chiếm Quảng Trị của tướng Trưởng. Hành quân Sóng Thần 72  sẽ bắt đầu ngày 28 tháng 6, 1972.
Theo tướng Trưởng, kế hoạch tái chiếm Quảng Trị rất đơn giản: từ ngày 10 đến  ngày 18, trong khi hai sư đoàn 2 và 3 bộ binh ở lại lo bảo vệ và phòng thủ, sư  đoàn 1 tấn công về hướng tây, Nhảy Dù và TQLC đánh nhích qua sông Mỹ Chánh vài  cây số thăm dò khả năng phản cự của địch. Từ 19 đ "đơn
Hình (từ trên xuống): Tướng Trưởng và đại úy Thomas Throckmorton. Hình chụp  trước trận Hắc Dịch, tháng 2-64. Tháng 8-64, cùng với đại úy Arvid E. West, vừa  nhảy dù xuống mật khu Thất Sơn, Châu Đốc. 3 tháng 5-67, Chuẩn tướng Trưởng,  thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm, Vùng I. Sau lưng tướng Lãm là trung tướng Lewis W,  Walt, tư lệnh TQLC Hoa Kỳ, Việt Nam. Sau lưng tướng Walt là thiếu tướng Bruno A.  Hochmuth, tư lệnh sư đoàn 3, TQLC. Bốn tháng sau, Hochmuth chết vì tai nạn trực  thăng.
27 tháng 6, với sự giúp đở của không và hải vận Mỹ, hai sư đoàn tổng trừ bị làm  bộ nhảy vào Cam Lộ và Cửa Việt. Và hai ngày trước khi thật sự tiến quân, hỏa lực  từ Không và Hải Quân và B-52 sẽ dọn bãi và san bằng những điểm kháng cự khả nghi.  Ngày 28, Nhảy Dù đánh bên trái, mục tiêu là La Vang; TQLC đánh bên phải, mục  tiêu là Triệu Phong. Quốc lộ 1 là trục làm chuẩn của hướng tiến quân. Nhảy Dù là  lực lượng có trách nhiệm chiếm thành Quảng Trị. Những ngày đầu của cuộc hành  quân, Dù và TQLC đánh chậm nhưng đi được. Trừ một vài trận đụng độ mạnh cấp  trung đoàn với địch ở những lớp phòng thủ vòng ngoài … địch rút dần theo đà tiến  của chúng ta. Nhưng càng đi gần về bờ sông thạnh Hãn, sức chống cự của địch càng  mãnh liệt hơn. Đầu tháng 7, khi quân Nhảy Dù đến ngoại ô thành phố Quảng Trị,  cộng quân từ chối rút: Cổ thành Quảng Trị là cứ điểm kháng cự cuối cùng -- đến  người cuối cùng; viên đạn cuối cùng -- của cộng quân. Chẳng những địch quyết tâm  tử thủ, họ còn viện quân thêm từ ngoài vào để củng cố thêm hàng phòng thủ. Để  chận đuờng tiếp liệu, tiếp quân của địch, tướng Trưởng ra lệnh cho một tiểu đoàn  TQLC trực thăng vận vào một địa điểm ở hướng đông bắc của thành phố để ngăn chận  hướng tiếp tế của địch … nhưng TQLC bị bộ binh và thiết giáp của địch chận đứng  ngay nơi họ đổ bộ. Nhưng sau khi chỉnh đốn, lính tiểu đoàn 1 của Nguyễn Đăng Hòa  chẳng những bám được địa điểm đổ quân, họ còn gom địch ngược về hướng tây (về  hướng Cổ Thành)ï. Đến ngày 14, TQLC thành công cắt được đường liên lạc tiếp tế  560 của địch. Hơn 50 ngàn quân của địch ở Quảng Trị bây giờ chờ gạo từng ngày.
Cuối tháng 7, các cuộc tấn công của Nhảy Dù hết hơi: Cách bức tường Cổ Thành  Quảng Trị chừng 200 mét, lữa đoàn 2 của đại tá Trần Quốc Lịch hết xăng. Tướng  Trưởng thông cảm cho lực lượng Nhảy Dù: Những trận đánh đẩm máu ở Võ định, Tân  Cảnh, ở quân đoàn II đã làm lữ đoàn 2 bị móp; hơn là bị móp. Cộng thêm vào đó là  sự cương quyết tử thủ của cộng quân. Không cần phải nghe Sài Gòn nhắc, tướng  Trưởng biết Cổ Thành bây giờ là một mục tiêu chính trị; một biểu tượng chính trị  cho hai phía VNCH và cộng sản Bắc Việt ở Paris (lúc này cộng sản đã trở lại bàn  hội nghị), ở trên đầu môi chót lưỡi của mọi người dân hai phía. Trong tác phẩm  của ông, tướng Trưởng nói ông không còn chọn lựa nào khác: Đánh không vào được,  hay bao vây chung quanh, hay đi vòng qua Cổ Thành chiếm các mục tiêu khác, rồi  sau đó trở lại chiếm Cổ Thành trong một thời gian khác, cũng không được; cũng bị  giải thích là thua. Chỉ có Cổ Thành nằm trong tay VNCH thì mới gọi là thắng.
Ngày 27 tháng 7-72, tướng Trưởng thay Nhảy Dù bằng TQLC. Mục tiêu vẫn như cũ;  chỉ thay đổi vùng trách nhiệm, tướng Trưởng viết. Nhận đuợc lệnh, thiếu tướng  Bùi Thế Lân dùng hai lữ đoàn 147 và 258 TQLC quyết tâm đánh chiếm Cổ Thành. Tám  tiểu đoàn tác chiến và một tiểu đoàn pháo binh TQLC bỏ ra hơn 50 ngày để hoàn  tất nhiệm vụ. Theo lời kể của đại tá Ngô Văn Định, lữ đoàn trưởng 258, đến ngày  16 tháng 9, khi quốc kỳ VNCH tung bay trên kỳ đài Cổ Thành, TQLC đã mất trên  3500 tử thương, và hàng ngàn quân nhân khác bị thương. Với sự thiệt hại đó, câu  nói Nhất tướng công thành, vạn cốt khô nói lên thật nhiều ý nghĩa.
Cuối năm 1972, cuộc chiến Việt Nam đã đến thế cờ tàn trên ván cờ chính trị quốc  tế: hơn bốn tháng sau, ngày 27 tháng 1-1973, VNCH không còn chọn lựa nào khác  hơn là ký vào hiệp định ngưng bắn; tự ký vào một bản án tử hình cho chính mình.  Tuyến đầu Vùng I của tướng Trưởng bị áp lực thường xuyên từ mùa thu năm 1974.  Không còn lo sợ không lực của Hoa Kỳ, cộng sản rãnh tay kiến tạo hệ thống tiếp  liệu của họ: đường mòn Hồ Chí Minh bây giờ là một xa lộ với những quán ăn như  Quán Aên Trường Sơn. Phi trường Khe Sanh trở thành một căn cứ hỏa tiển SAM của  địch. Trực thăng Bắc Việt có thể đáp ở phi trường Vĩnh Linh, bên kia bờ sông Bến  Hải, để đưa các cán bộ cao cấp của họ đi thẳng vào thăm các binh trạm của binh  đoàn Trường Sơn. Tháng 7-1974, sư đoàn 304 đánh chiếm Nông Sơn, Thường Đức. Rất  đau lòng, rất lo lắng, nhưng tướng Trưởng phải mượn hơn một lữ đoàn Nhảy Dù để  giải tỏa áp lực của địch từ cao điểm 1062 đang đè xuống Đà Nẵng. Dĩ nhiên Nhảy  Dù giải tỏa được cao điểm 1062. Nhưng phải tốn 500 quân chết và gần 2000 quân bị  thương -- trận đánh lớn nhất từ sau ngày ngưng bắn. Vùng I, trong những ngày  tháng đó, chỉ ổn định được với sự hiện diện của hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù  và TQLC.
Phước Long mất vào đầu năm 1975; Ban Mê Thuột mất, và Pleiku, Kontum bỏ ngỏ để  di tản vào ngày 16 tháng 3-75. Vùng I và tướng Trưởng chờ một quyết định tối hậu  từ Sài Gòn: Tử thủ hay rút quân về những cứ điểm để phòng ngự.
Ngày 13 tháng 3-75, Sài Gòn gọi tướng Trưởng về để duyệt xét lại các kế hoạch  phòng ngự Vùng I. Trong buổi họp này -- và cho đến ngày VNCH bị thất thủ -- ai  nói gì, quân lệnh ra sao, nhiệm dụ của tướng Trưởng là gì … vẫn còn nằm trong  vòng bí mật. Chúng ta biết một chút nội dung … biết một cách gián tiếp, nhưng  không ai trong cuộc trực tiếp nói rõ chuyện gì xảy ra. Chúng ta biết ngay trong  buổi họp ngày 13 tổng thống Thiệu ra lệnh cho tướng Trưởng phải giữ Vùng I với  số quân cơ hữu của quân đoàn và sư đoàn TQLC. Cũng trong buổi họp này, tướng  Trưởng biết quân đoàn I phải trả sư đoàn Nhảy Dù lại cho bộ tổng tham mưu, nhưng  ông xin tổng thống Thiệu cho ông giữ lại sư đoàn TQLC để dân quân có được tinh  thần. Trước mặt ông, tổng thống Thiệu cho ông tùy nghi xử dụng TQLC, chỉ trả sư  đoàn Dù lại mà thôi. Nhưng sau buổi họp, trong lúc nói chuyện riêng giữa ông và  thủ tướng Khiêm, thủ tướng Khiêm nói hé ra là Sài Gòn có thể lấy TQLC khỏi Vùng  I. Ngày 14, tổng thống Thiệu ra Nha Trang ra lệnh cho thiếu tướng Phạm Văn Phú  di tản tất cả quân còn lại ở Kontumvà Pleiku về Tuy Hòa/ Nha Trang, để tái trang  bị và bổ xung rồi từ đó … đánh ngược lên chiếm lại Ban Mê Thuột và Vùng II! Trở  lại quân đoàn I ngày 14, tướng Trưởng thông báo quyết định của Sài Gòn cho trung  tướng tư lệnh phó Lâm Quang Thi. Ông nói quân đoàn sẽ được giữ lại 2 trong số 3  lữ đoàn của TQLC. Hai lữ đoàn TQLC sẽ về thay Nhảy Dù ở Đà Nẵng, vì lữ đoàn 2 Dù  có thể được trưn gdụng trong kế hoạch chiếm lại Ban Mê Thuột. Ngày 18 thủ tướng  Trần Thiện Khiêm bay ra Đà Nẵng họp với tướng Trưởng (theo lời yêu cầu của tướng  Trưởng) để giải quyết vấn đề đân di tản. Trong buổi nói chuyện ngày 13, tướng  Trưởng xin thủ tướng Khiêm giúp ông giải quyết vấn đề dân di tản đang dồn về  thành phố. Theo ông, dân di tản sẽ làm ứ động quốc lộ 1, con đường huyết mạch để  chuyển quân trên toàn Vùng I. Ngày 19, ông được yêu cầu trở về Sài Gòn thêm một  lần nữa để trình bày lại kế hoạch di tản/ phòng thủ Vùng I. Trong lần họp này,  với tình hình dân chúng di tản tấp nập trên quốc lộ1, tướng Trưởng nói rút quân  từ Huế về Đà Nẵng trong tình trạng hỗn lọan đó sẽ khó thực hiện được. Ông đề  nghị cho ông ở lại tử thủ Huế, và Huế, Đà Nẵng và Chu Lai sẽ là điểm kháng cự  cuối cùng của Vùng I. Tổng thống Thiệu và đại tướng Cao Văn Viên đồng ý. Tướng  Trưởng bay trở lại quân đoàn I và thông báo cho trung tướng Lâm Quang Thi quyết  định của tổng thống Thiệu thê I phải "trả" nữa.
Ngày hôm sau, 20 tháng 3, tổng thống Thiệu lên đài phát thanh đọc lời hiệu triệu,  ra lệnh dân quân giữ Huế bằng mọi giá. Nhưng tối đêm đó, tổng thống Thiệu đổi ý:  ông ra lệnh cho bộ tổng tham mưu đánh cho tướng Trưởng một quân lệnh, cho biết  Sài Gòn chỉ còn đủ phương tiện để yểm trợ cho một cứ điểm kháng cự. Trong ba cứ  điểm Huế, Chu Lai, Đà Nẵng, tướng Trưởng phải chọn một. Dĩ nhiên, Đà Nẵng phải  là cứ điểm ưu tiên. Tướng Trưởng ra lệnh di tản về Đà Nẵng. Tướng Lâm Quang Thi,  trong tác phẩm The Twenty-Five-Year Century của ông, có nói quân lệnh thay đổi  như vậy, nhất là ở cấp quân đoàn thì khó làm việc, và gây thêm nhiều hoang mang  cho người thừa hành. Đại tướng Frederick Weyand, đang là tư lệnh Lục Quân Hoa Kỳ,  trong tờ tường trình cho tổng thống Ford sau chuyến viếng thăm ở Việt Nam cuối  tháng 3-75, cũng cho biết trong tuần lễ đó, tướng Trưởng đã nhận 3 quân lệnh  trái ngược nhau từ tổng thống Thiệu.
Trong hoàn cảnh hỗn lọan của Đà Nẵng, ngày 25 tướng Trưởng nhận thêm một tin  không vui từ Sài Gòn: đích thân trung tướng Lê Nguyên Khang -- đang là tổng  thanh tra quân đội -- bay ra Đà Nẵng đưa cho tướng Trưởng một quân lệnh yêu cầu  ông trả lại sư đoàn TQLC ngay lập tức. Tướng Trưởng phản đối. Ông nói Đà Nẵng  không thể nào phòng thủ được nếu không có mặt của TQLC. Trong hai ngày 26-27,  tướng Trưởng và tướng Lâm Quang Thi cố gắng san sẻ quân để lấp vào những lổ  trống của vòng đay phòng thủ -- càng lúc càng xiết chặc chung quanh Đà Nẵng.  Chín giờ đêm ngày 27 ông gọi cho tướng Viên báo cáo tình hình và yêu cầu cho  phép ông di tản sư đoàn TQLC và những trung đoàn còn lại của sư đoàn 1 và 3.  Tướng Viên nói đó là quyết định của tổng thống Thiệu. Tướng Trưởng gọi Dinh Độc  Lập, nhưng tổng thống Thiệu không có mặt; khoảng 10 giờ đêm tổng thống Thiệu gọi  lại … sau khi nghe tướng Trưởng báo cáo tình hình, ông Thiệu hỏi tướng Trưởng sẽ  giải quyết ra sao. Tướng Trưởng trả lời ông sẽ giải quyết theo sự biến chuyển  của tình hình. Tổng thống Thiệu cúp điện thoại. Vài phút sau tướng Trưởng ra  lệnh di tản khỏi Đà Nẵng. Nhưng không, đến đó không còn di tản nữa. Vì chữ di  tản có chứa đựng một khái niệm về sự thứ tự và trật tự trong lúc lui quân. Địch  đã cắt nát quốc lộ 1 ra từng đọan và đang dùng pháo binh để hăm dọa các cửa khẩu  từ biển đi vào bờ. Đến giờ phút đó, chữ bỏ có nghĩa và đúng nghĩa hơn chữ di tản.  Đà Nẵng và Vùng I mất hai ngày sau đó. Vài ngày sau, cộng quân gom tất cả lực  lượng của họ đang có mặt ở Vùng I lập ra một binh đoàn có tên là Binh Đoàn Duyên  Hải. Từ đó họ tiến về Vùng III.
Cuộc đời có nhiều nghịch lý và bi hài kịch. Tướng Ngô Quang Trưởng sanh ra và  lớn lên ở Bến Tre, một vùng đất được mệnh danh là cái nôi của cộng sản; một nơi  mà trong năm Mậu Thân 1968, một sĩ quan Hoa Kỳ tuyên bố phải tàn phá hết đề xây  dựng lại, nhưng ông đã xả thân chống lại những người cộng sản, chủ thuyết cộng  sản, cho đến hết cuộc đời. Sanh ra ở Bến Tre, nhưng tướng Trưởng lớn lên, yêu,  quí mến, và bảo vệ một vùng đất thật xa cho đến hết cuộc đời: Ông thương Quảng  Trị và Thừa Thiên đến độ ông đặt tên người con trai út là Ngô Trị Thiên.
Tháng 8 năm ngoái, khi được thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh chuyển lời, người viết  có dịp nói chuyện với tướng Trưởng. Trong lần nói chuyện đó, với bản tính thích  tìm căn nguyên của lịch sử, người viết mạo muội hỏi tướng Trưởng về thái độ của  người Mỹ trong cuốn chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972; hỏi về nội dung những đối  thọai giữa ông và tổng thống thiệu vào tháng 3-1975. … Nhưng tướng Trưởng tránh  không trả lời thẳng những câu hỏi đó. Ông chỉ nói … cũng không có gì để nói …  tất cả đã được nói hết rồi … những gì anh em chúng ta làm trong quá khứ đều có  nghĩa. Câu chuyện tiếp tục được vài phút sau thì người viết lại cố gắng lái về  hai câu hỏi nguyên thủy. Lần này ông cũng tránh trả lời. Nhưng lần này ông nói  cho người viết nghe về triết lý của một người quan võ Á Đông. Đại khái tướng  Trưởng muốn nói đến câu Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại  phu bất khả ngôn trí. (Tướng bại trận thì không thể nói mình anh dũng. Bậc trí  sĩ đại phu khi đã mất nước thì không thể nói mình có mưu lược.) Thâm thúy, thật  thâm thúy.Với  tất cả sự kính trọng của một hậu sinh đối với trung tướng Ngô Quang Trưởng,  người viết xin kính dâng lên vị tướng quá cố đôi dòng tưởng niệm này. __________________

Lời người viết: Thể văn tưởng niệm và điếu văn, không cho phép người viết xử dụng lối ghi chép  kiểu trích dẫn biên khảo. Nhưng, vì một vài chi tiết trong bài viết có thể đưa  đến sự tranh luận. Vì khả thể đó, người viết lược ghi dưới đây những nguồn tài  liệu, nhân chứng, đã cung cấp chi tiết cho bài viết này. - Chi tiết về gia đình của tướng Trưởng đến từ hai anh Nguyễn Tường Đằng và  Nguyễn Tường Giang. Hai anh là em vợ của người quá cố.

- Thứ hạng ra trường Sĩ Quan  Trừ Bị Thủ Đức Khóa 4, năm 1954, và tên các người bạn đồng khóa, đến từ hồ sơ  nghiên cứu về các sĩ quan VNCH, do Phòng Chính Trị tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn sọan  thảo vào năm 1974. Bản lưu trữ nằm trong thư viện Texas Tech University.

- Chi tiết các trận đánh Đỗ Xá,  Bình Giả, Hắc Dịch, Thăng Bình, đến từ các đại tá Vũ Thế Quang, Nguyễn Thu Lương  và Tôn Thất Soạn.

- Tường trình lo ngại về khả  năng của cộng sản sau trận Bình Giả nằm trong, CIA Weekly Report/ OCI No 2654/65  (declassified April-96).

- Tất cả những lời bình phẩm  của các tướng lãnh Hoa Kỳ về tướng Trưởng nằm trong sách đã dẫn, và, Lewis  Sorley, A Better War.

- Về chuyện MACV dùng hồng  ngoại tuyến để dò địa điểm đóng quân của Việt Cộng ở Bình Giả, nằm trong, The  United States Air Force in Southeast Asia: The Advisory Year to 1965. - Chuyện  về các cố vấn Nhảy Dù Hoa Kỳ đến từ, Command Sergeant Major M. Martin, Angels in  Red Hats: Sư Đoàn Nhảy Dù. Sự nghiệïp của thiếu tá Guy S. Meloy, III, nằm trong  Charles Beckwith, Delta Force. Quan sát của đại tướng Schwarzkopf, trong, H.  Norman Schwarzkopf, It Doesn't Take a Hero.

- Quan sát của các sĩ quan cấp  nhỏ đang đánh trận đến từ, Trần Ngọc Toàn, The Binh Gia Front/ Mặt Trận Bình  Giả, và Phan Nhật Nam, Dấu Binh Lửa. Trong Dấu Binh Lửa, tác giả Phan Nhật Nam  cũng ghi lại trận Hắc Dịch mà ông đã tham dự.

- Biến cố chính trị ở miền  Trung đến từ Đoàn Thêm, Chuyện Từng Ngày.

- Chuyện tướng Trưởng nhảy dù  rớt xuống sông Hương đến từ đại tá Tôn Thất Soạn.

- Trận Mùa Hè Đỏ Lửa và những  cuộc hành quân liên hệ, đến từ, Ngô Quang Trưởng, The Easter Offensive of 1972.  Charles D. Melson, U.S. Marines in Vietnam1971-1973: The War That Would Not End.

- Đại tá Ngô Văn Định, Tái  Chiếm Cổ Thành Quảng Trị, trích trong tuyển tập, Hai Mươi Năm Chiến Trận của  TQLC Việt Nam (1954-1975).

- Con số 50 ngàn quân cộng sản  ở mặt trận Quảng Trị đến từ sựï tín toán của người viết.

- Đồng Sỹ Nguyên (tư lệnh binh  đoàn Trường Sơn/ 559) trong, Đường Xuyên Trường Sơn, và, Tổng Cục Hậu Cần,  trong, Lịch Sử Bộ Đội Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh, đều nhắc đến một sự kiện  thiếu gạo trong thời gian họ chiến đấu ở Quảng Trị.

- Ở một đoạn văn cả hai sách  đều nói đến năm trăm (500) tấn gạo chỉ nuôi quân được hơn một tuần … Cấp số ẩm  thực của quân lính cộng sản là 3 lon (750 grams) đến 4 lon (1 ki lô) gạo một  ngày. 500 tấn bằng 500.000 kí. Chia cho 10 ngày chúng ta có sức tiêu thụ 50.000  ký một ngày. Với cấp số 3 lon một ngày, chúng ta có 75 ngàn quân; 4 lon, 50 ngàn  quân.

- Tướng Trưởng, trong The  Easter Offensive cho biết địch có khoảng 6 sư đoàn ở Vùng I. Một sư đoàn cộng  sản có từ 7.500 đến 8500. Sáu sư đoàn cho ta số quân tương tự như nhu cầu ẩm  thực hàng ngày của họ.

- Tình hình Vùng I và sự thất  thủ đến từ, những đối thoại của người viết và thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, và,  đại tướng Cao Văn Viên, The Final Collapse/ Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng  Hòa. Trung Tướng Lâm Quang Thi, The Twenty-Five-Year Century. Stephen T. Hosmer,  et al., The Fall of South Vietnam: Statemens by Vietnamese Military and Civilian  Leaders. Tờ tường trình của tư lệnh Lục Quân Frederick Weyand cho tổng thống  Gerald Ford về những quân lệnh trái ngược, nằm trong, The Weyand Report, hiện  lưu trữ tại The Gerald. R. Ford Presidental Library/ University of Michgan.

- Hình của tướng Trưởng và đại  tướng Westmoreland ở Vùng I nằm trong, The U.S. Marines in Vietnam:1967. Các  hình còn lại nằm trong, Command Sergeant Major M. Martin, Angels in Red Hats: Sư  Đoàn Nhảy Dù Thất   

Nguyễn Kỳ  Phong

Filed under: