Ý nghĩa lá cờ quốc gia Việt Nam

Thứ Hai, 1 tháng 10, 2012 by: Lý Tưởng Người Việt


1. Ý Nghĩa của Màu Sắc Lá Cờ Việt Nam Tự Do Nền Vàng Ba Sọc Ðỏ
Lá cờ Việt Nam Tự Do có nền vàng và ba sọc đỏ. Màu vàng là màu quốc thổ và cũng là màu da của giống nòi Việt Nam.
Theo vũ trụ quan của người Việt, màu vàng còn thuộc về hành thổ và có vị trí trung ương, tượng trưng cho lãnh thổ và chủ quyền của quốc gia. Chính vì thế mà vua chúa thời xưa thường xưng là Hoàng Ðế và mặc áo có tên hoàng bào.
Màu đỏ thuộc hành hỏa và là màu của phương Nam. Ðây là biểu tượng của một dân tộc bất khuất, anh hùng, và độc lập trong cõi trời Nam, tách biệt hẳn với nước Tàu ở phương Bắc.
Ba sọc đỏ còn tượng trưng cho ba miền: Bắc, Trung, và Nam. Tuy gọi là ba miền (ba sọc đỏ) nhưng chúng có cùng chung một nhà (nền vàng). Ðó là nhà Việt Nam, con dân muôn đời thương yêu đùm bọc lẫn nhau.

2. Ý Nghĩa tượng trưng của Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

Cờ Việt Nam Tự Do được hun đúc bằng khí thiêng trời đất và tinh thần quật khởi của dân tộc Việt suốt gần hai ngàn năm lịch sử. Nó tượng trưng cho hồn thiêng sông núi, cho vận hội thái hoàm, và cho sự thành công vĩnh cửu của giống nòi Việt Nam.

Lá Cờ Quốc Gia Việt Nam là linh hồn của cả dân tộc Việt. Lá cờ còn, chính nghĩa còn. Lá cờ còn, tinh thần chiến đấu còn. Lá cờ còn, sự đoàn kết còn, nó là tín bài để chúng ta nhận diện giữa người Việt Quốc Gia và bè lũ Cộng Sản. Chỗ nào có cờ Quốc Gia Việt Nam, thì chỗ đó có tình thương, có dân chủ, có tự do, và nhân quyền. Trong khi chiến đấu với kẻ thù, lá cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho Chính Nghĩa Quốc Gia Tự Do. Hiện tình của chúng ta ở hải ngoại là đang trực diện sống còn với Cộng Sản tại Việt Nam, mà lá cờ Vàng là biểu tượng cho chính nghĩa ấy. Biểu tượng chính nghĩa Tự Do là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Có giương cao lá cờ chính nghĩa, ta mới có đoàn kết, và thu hút được nhân tâm để áp lực bắt tập đoàn Cộng Sản Việt Nam phải qui hàng và từ bỏ chế độ Cộng Sản mà chúng đang theo đuổi. 

3. Lịch Sử Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

a. “Đầu voi phất ngọn cờ Vàng”
Vào năm 40 Dương Lịch, Hai Bà Trưng dùng “Đầu voi phất ngọn cờ Vàng” đem quân đánh Tô Định để lập quốc xưng Vương

Hình ảnh

b. Long Tinh kỳ (1802-1885 – Từ thời Gia Long đến thời Đồng Khánh) 

Hình ảnh

c. Đại Nam kỳ (1885-1890– Từ thời Đồng Khánh đến thời Thành Thái) 

Đây là hình lá cờ Đại Nam của triều đình Đồng Khánh, được tìm thấy qua tài liệu của người Tây phương 

Hình ảnh

d. Đại Nam Quốc kỳ (1890-1920 Từ thời Thành Thái đến thời Khải Định)

Hình ảnh

Quốc kỳ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ dưới hai triều đại Kháng Pháp 1890 - 1920. Nền vàng. Ba sọc đỏ bằng nhau biểu hiệu Bắc Nam Trung bất khả phân. Có thể nói Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, gọi tắt là "Cờ Vàng" là lá "quốc kỳ" đúng nghĩa đầu tiên của dân tộc Việt, vì nó hàm chứa nguyện vọng độc lập và thống nhất của lãnh thổ Việt.Sự kiến tạo lá quốc kỳ mới ấy có nhiều ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thể hiện ý chí đấu tranh, bác bỏ hiệp ước Quý Mùi, "chia để trị" của thực dân Pháp, đã tao ra tình trạng Nam Kỳ thuộc địa, Trung Bắc kỳ bảo hộ.

Xác quyết sự toàn vẹn lãnh thổ của Đại Nam Quốc, ba miền đều có tư thế chính trị giống nhau và bất khả phân trong nền tảng màu Vàng của dân tộc Việt ở phương Nam. Nêu cao tinh thần "quốc gia dân tộc", bằng cách đoạn tuyệt với sự liên hệ của chữ Hán, cũng như thoát ly ra khỏi nền bảo hộ Pháp và triều cống Tàu. Chính vì các ý nghĩa trên mà lá cờ Vàng còn được mệnh danh là cờ "Quốc Gia". Như vậy, từ ngữ "quốc gia" có từ cuối thế kỷ 19, đối nghịch với "thuộc địa", chớ không chỉ mới có vào bán thế kỷ 20 khi từ ngữ "cộng sản" xuất hiện 

e. Cờ Bắc Trung Kỳ trong thời miền Nam thành thuộc địa Pháp Long Tinh Kỳ (1920 - 10 Mar, 1945). Long Tinh kỳ (1920-1945) – Thời Thuộc địa Pháp tại Bắc & Trung kỳ 

Hình ảnh

Nền vàng. Một sọc đỏ lớn. Biểu tượng cho Bắc và Trung kỳ mà thôi. 10-3-45 là ngày cáo chung của chế độ bảo hộ PhápLá cờ Vàng Một Sọc Đỏ, cũng được gọi là cờ "Long Tinh", vì nó biến thể từ Long Tinh Kỳ nguyên thủy trong mấy chục năm đầu của nhà Nguyễn.Nền vàng có hình chữ nhật tương tự như quốc kỳ của các quốc gia khác. Chấm đỏ được kéo dài ra thành sọc đỏ ở giữa. Tua xanh không còn nữa. Đây là lá cờ biểu hiệu cho một quốc gia chỉ còn hai miền Bắc và Trung, thuộc quyền bảo hộ Pháp. 

Lá cờ này trải qua đời vua Khải Định và tồn tại trong đời vua Bảo Đại, sau khi vua Khải Định băng hà vào năm 1925.Sau khi lên ngôi vào đầu năm 1926 lúc mới 12 tuổi, vua Bảo Đại trao hết quyền cho "Hội Đồng Phụ Chính" với sự chỉ đạo của Toàn Quyền Pháp rồi trở sang Paris tiếp tục học cho đến 1932 mới trở về chấp chính. Lá cờ Long Tinh vẫn được tiếp tục dùng làm biểu tượng của triều đình Huế, lúc bấy giờ chỉ còn thẩm quyền cai trị hai miền Bắc và Trung dưới sự bảo hộ của Pháp. 

f. Cờ Nam kỳ miền Nam thuộc địa Pháp (miền Nam thuộc địa Pháp) 1923-1945 Thời Pháp tại Nam kỳ 

Hình ảnh

Nền vàng, cờ Tam Tài, màu xanh, trắng, đỏ nằm trên góc trái. 10-3-45, Nhật đảo chính Pháp Cờ này tồn tại đến 10-3-45 thì cáo chung sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương.

g. Long Tinh Đế Kỳ (11/3-30/8/1945. Thời Bảo Đại) Long Tinh Kỳ trong thời Nhật chiếm Đông Dương, 11 tháng 3 - 1945 - Aug 1945 (11 Mar - 30 Aug, 1945) 

Hình ảnh

Nền vàng, sọc đỏ bằng 1/3 cờ. 11-3-45 Bảo Đại tuyên bố VN độc lập, Long Tinh Kỳ trở thành Đế Kỳ 30-8-45. Bảo Đại thoái vị, Đế Kỳ cáo chung. 

Một ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp, vua Bảo Đại đăng đàn tại Huế vào ngày 11-3-45, tuyên bố hủy bỏ hòa ước Quý Mùi 1883 và Giáp Thân 1884, Việt Nam thống nhất và độc lập, theo chế độ Quân Chủ tân thời như một số quốc gia Tây Phương và ủy nhiệm cho học giả Trần Trọng Kim thành lập chính phủ. 

Sau đó, vua Bảo Đại phân định cho Long Tinh Kỳ trở lại cương vị của Đế Kỳ, chỉ treo nơi Hoàng Thành Huế hoặc mang theo những nơi vua tuần du . Long Tinh Đế Kỳ cũng tương tự như Long Tinh Quốc Kỳ trong thời Pháp bảo hộ, nhưng nền vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với cờ Quẻ Ly của chính phủ Trần Trọng Kim. 

h. Cờ Quẻ Ly của quốc gia Việt Nam trong thời Nhật chiếm Đông Dương. Cờ Quẻ Ly thời Nhật (11 Mar - 5 Sep, 1945) Cờ Quẻ Ly (11/3-5/9/1945 Thời chính phủ Trần Trọng Kim) 

Hình ảnh

Nền vàng, ba sọc đỏ, sọc giữa đứt khoảng hơi giống hình Quẻ Ly Quốc kỳ chính thức thời Nhật, đồng thời với Long Tinh Kế KỳĐể biểu trưng cho Quốc Gia trong chế độ Quân Chủ, Bảo Đại ký sắc lệnh chấp thuận đề nghị của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, lấy lại quốc hiệu Việt Nam mà nhà Thanh đã chấp thuận trong thời vua Gia Long, và sáng tạo ra một quốc kỳ mới. 

Đó là lá cờ có nền vàng tương tự như Long Tinh Đế Kỳ nhưng vạch đỏ được chia làm ba vạch nhỏ bằng nhau, riêng vạch giữa thì đứt khoảng, tương tự như quẻ Ly, một quẻ trong bát Quái

i. Cờ Vàng sọc Xanh của Chính Phủ Lâm Thời "Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc" . Cờ Nam Kỳ Cộng Hoà Quốc (1/6/1946-2/6/1948. Thời Bảo Đại)

Hình ảnh

Cờ Nam Kỳ Cộng Hoà Quốc (1 Jun, 1946 - 2 Jun, 1948)1-6-46. Nam Kỳ CH Quốc trong Liên Bang Đông Dương. Nền vàng, ba sọc xanh, hai sọc trắng 2-6-48 . Bảo Đại lập Quốc Gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, thống nhất ba miền. 


j. Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của "Việt Nam Quốc" và "Việt Nam Cộng Hòa"Cờ Vàng Quốc Gia VN (2 Jun, 1948 - 20 Jul, 1954) Quốc kỳ Việt Nam (1948-1954 thời Bảo Đại) và Quốc kỳ VNCH(1954-1975 thời Đệ I và II Cộng Hòa) 

Hình ảnh

2-6-48, Chính Phủ Trung Ương dùng Cờ Vàng làm quốc kỳ giống như Đại Nam Kỳ thời 1890-1920.20-7-54. Đất nước chia đôi theo Hiệp Định Genève. Từ đó, Cờ Vàng vẫn được dùng làm Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà từ 20-7-54 đến 30-4-75. 

Vào năm 1948, Bảo Đại không muốn tái sử dụng Long Tinh Kỳ vì đó là Đế Kỳ của một đế chế mà ông đã chấm dứt vào tháng 8 năm 1945. Một ông vua tha thiết với nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ, đến nỗi chịu thoái vị vì quyền lợi tối thượng của đất nước, hẳn dư biết nguồn gốc của lá Cờ Vàng. 

Ngoài ra, một vài chi tiết lịch sử quan trọng khác cũng đã góp phần vào việc chọn lựa Cờ Vàng: Đó là cái chết oan ức tại Phi Châu vào cuối năm 1945 của hoàng tử Vĩnh San, tức là cựu hoàng Duy Tân, và sự hiện diện tại Sài Gòn từ năm 1947 của cựu hoàng Thành Thái, thân sinh của Duy Tân. 

Cờ Vàng đã được dùng làm Quốc Kỳ lần đầu trong triều đại của hai vị vua này. Cả hai đã là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp dành độc lập vào đầu thế kỷ 20, mà hậu quả là cuộc xử tử các thủ lãnh Quang Phục Hội như anh hùng Thái Phiên, Trần Cao Vân vào năm 1916, và án lưu đày Phi Châu của hai vị vua ái quốc ấy. 

Năm 1942, hoàng tử Vĩnh San gia nhập quân đội Pháp (cánh De Gaulle), đến năm 1945 được thăng cấp Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng. Khi Thế Chiến thứ 2 kết thúc, Tướng De Gaulle về Pháp cầm quyền, dự định cho ông về Việt Nam. Nhưng sau đó, có người tố cáo cho De Gaulle biết Vĩnh San luôn luôn ấp ủ chủ trương Việt Nam độc lập và thống nhất Nam, Trung, Bắc. 

Vì vậy, trong lần hội kiến với De Gaulle vào ngày 14-12-1945, ông bị khiển trách nặng nề và bị tước mất cấp bậc. Ông đã tâm sự với người bạn thân rằng ông lo ngại sẽ bị hại. Ngày 24-12-45, ông bị đưa về lại đảo Réunion. Hai hôm sau, ông bị tử nạn máy bay tại Trung Phi. Cái chết đầy nghi vấn của cựu hoàng Duy Tân đã làm dư luận Việt Nam xúc động và thương tiếc vị vua ái quốc. Năm 1947, cha ông là cựu hoàng Thành Thái lúc bấy giờ đã 68 tuổi, được Pháp cho về Sài Gòn, với điều kiện là ông không giữ bất cứ một trách nhiệm chính trị nào cả.

Dù vậy, sự hiện diện của cựu hoàng Thành Thái cùng với cái chết của cựu hoàng Duy Tân hiển nhiên đã gợi lên tinh thần tôn kính hoài bão của hai vua. Chắc chắn Bảo Đại có đến thăm bậc Thái Thượng Hoàng khả kính của ông, và hội ý trong việc chọn Cờ Vàng làm Quốc Kỳ, nhưng ông không thể tiết lộ ra, vì sẽ phạm vào điều kiện của De Gaulle khi cho cựu hoàng Thành Thái về VN, là không được tham dự vào chính trị phục quốc. Sự rao truyền rằng Cờ Vàng do họa sĩ Lê Văn Đệ vẽ ra mà không nhắc đến sự hiện hữu của Cờ Vàng 50 năm trước, cũng có dụng ý. 
Đó là vì nhu cầu bảo vệ an nguy của cựu hoàng Thành Thái. 

Vì thế, việc Quốc Trưởng Bảo Đại lựa chọn Cờ Vàng của thời chống Pháp làm Quốc Kỳ cho tân chế độ là một quyết định sáng suốt và hợp chính nghĩa.Vì nguồn gốc kháng Pháp hào hùng của Cờ Vàng, mà năm 1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tổ chức "trưng cầu dân ý" lập ra chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà, quốc hội mới vẫn giữ nguyên quốc kỳ của một chế độ đã cáo chung.

Cuộc đảo chánh năm 1963, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng Hòa, lập nên Đệ Nghị Cộng Hoà, Cờ Vàng vẫn được giữ nguyên là Quốc Kỳ cho đến khi miền Nam bị miền Bắc thôn tính.


4. Lời Kết

Lá cờ Việt Nam Tự Do không phải là của riêng một chế độ hay của riêng một chính phủ nào mà là của chung cho cả dân tộc Việt Tự Do. Nếu một chế độ nào thối nát, hay một chính phủ nào làm tay sai cho ngoại bang, thì Lá Cờ Việt Nam Tự Do không vì thế mà bị mang tiếng. Dân ta phải loại chế độ đó và phải loại chính phủ đó mà bảo vệ cho màu cờ của tổ tiên.

(Sưu Tầm)

Filed under: ,