Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011 by LTSA
Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách: Nước nhà lúc hưng thịnh hay lúc suy vong, một người dân thường cũng phải có trách nhiệm lo lắng. Định nghĩa quốc hồn, quốc túy nó là như vậy, nhưng thời buổi này ai mà xướng lên như thế nếu không dòm trước ngó sau coi chừng bị vỗ vai: “Biết rồi! có im cái mồm đi không! ai khiến anh lo! Đảng, nhà nước lo rồi?” Thực tế là như thế, không ít người biểu tình yêu nước trong 11 ngày chủ nhật vừa qua hay nghe như vậy.

Chưa đến lượt thất phu, trước đó, những bậc “Trượng Phu” – vì trượng phu toàn cành đa, cành đề nên được nhẹ tay, cảnh cáo (bằng văn phu) cái công văn Quyết định 97/2009/QĐ-TTg về việc ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ (KH&CN) được ông Thủ tướng ký với nội dung hướng dẩn phản biện có điều kiện, có xin phép, làm cho một loạt các vị trượng phu tên tuổi trí thức lớn trong Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) gồm 16 vị, như các ông: Hoàng Tụy, Nguyễn Quang A, Phan Đình Diệu, Tương Lai, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Nguyễn Trung, Nguyên Ngọc..v.v phải ngậm ngùi “gác kiếm” tự giải thể để phản đối, bởi gươm thiêng mài bao năm là mong có dịp giúp nước giúp dân giờ chỉ cho phép chém “ruồi” thì còn gì là gươm?.
Rồi đây nữa – cũng vì trượng phu hữu trách ấy mà một loạt nhân sĩ trí thức các ông: GS Hoàng Tụy, GS Nguyễn Huệ Chi, GS Phạm Duy Hiển, TS Nguyễn Quang A, Nhà văn Trần Nhương, Nhà văn Phạm Xuân Nguyên, TS Nguyễn Xuân Diện, Luật sư Trần Vũ Hải, anh Nguyễn Quang Thạch,Nguyễn Văn Phương, GS Chu Hảo,LS Lê Hiếu Đằng, Nhà văn Nguyên Ngọc, GS Ngô Đức Thọ, Trần Kim Anh, Bà Cao thị Vũ Anh,TS Hoàng Hồng Cầm, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh …cùng ký tên trong một kiến nghị yêu cầu bộ Ngoại Giao cung cấp thông tin những chi tiết đồng thuận trong cuộc họp song phương VN+TQ của thứ trưởng Hồ Xuân Sơn và Ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Đới Bình Quốc về Biển Đông hôm 25 tháng 6, dù cất công đến tận khuôn viên bộ ngoại giao nhưng chắc cũng “Biết rồi! khổ lắm! hỏi mãi! có đảng, nhà nước lo” nên không ai mời, ai tiếp?
Không như trượng phu có “số má”, là thất phu nên khi thể hiện cái hữu trách của mình, nhiều người dân và bạn trẻ biểu tình yêu nước bị người ta sử dụng “Vũ Phu” để giành lấy cái độc quyền “hữu trách” bị săn sóc bất nhã hơi nhiều, toàn là những đòn thế bí hiểm như bắt súc vật khó lòng cựa quậy, nào là:


(Tiều phu bóp cổ) (Công phu dép cước) (Tứ phu gia hình)
Nhiều vị bô lão cao niên chứng nhân hai ba chế độ cứ vỗ trán nhức đầu: Lạ thiệt! toàn là dân mình với nhau, mũi tẹt da vàng chớ có thằng Tây mũi lõ nào đâu? nhưng sao nó giống hệt hồi quá khứ thực dân bố ráp người yêu nước quá trời, đồng chủng tộc, ngôn ngữ nhưng nói chuyện với người dân yêu nước bằng vũ phu, bằng bạo lực thì có khác gì… xâm lược tự do dân chủ của dân!!.
Cứ hết đợt này tới đợt khác nhà nước hô hào toàn dân học tập nghị quyết của đảng: Toàn dân “Thi Đua Yêu Nước” nhưng khi nhiều người cụ thể lòng yêu nước “thiệt tình” thì lại bị vũ phu, thượng cẳng chân, hạ cẳng tay cũng “thiệt tình” không kém, hình như mấy ổng chỉ khoái cái kiểu yêu nước “an toàn” yêu nước gián tiếp, hết thảy vô hội trường ngồi, nghe cán bộ MTTQ đọc diễn văn “Yêu nước có định hướng, có mô hình”… rồi thì yêu nước càng nhiều thì ráng vỗ tay càng lớn, càng lâu càng tốt! chớ mấy ổng “nhạy cảm” không ưa cái kiểu yêu nước phóng khoáng tự do như mây bốn phương trời, hồn nhiên tự nguyện nhưng không biết đường nào mà lần, sơ sẩy nó kéo nhau hội tụ tầng tầng lớp lớp thành giông bão, từ yêu nước rủ nhau yêu thêm đủ thứ nữa, Nước thì nó yêu còn mình thì nó ghét, nó làm nên một cơn hồng thủy, tới lúc đó không biết có leo kịp lên nóc lăng Ba Đình trú thân không? Chắc mấy ổng ám ảnh như vậy? nên cứ thắp tha thắp thỏm chứ quang minh chính trực, chính quyền là của dân do dân trực tiếp phúc quyết đồng thuận thì làm sao có cái chuyện tréo cẳng ngổng: Nhà nước và nhân dân đối đầu vì “Yêu Nước” nghịch lý như vậy?.
Mấy vị hưu trí từng là cán bộ cách mạng lão thành tiền khởi nghĩa, cựu tù nhân của thực dân, còn chắc lưỡi ngao ngán hơn: Hồi đó yêu nước chống thực dân bị tụi Tây bắt ở tù coi vậy mà sướng hơn bây giờ! Nó bắt giữ mình đa phần là đâu ra đó, căn cứ trên pháp luật thuộc địa, giam nhà lao nào, tù biệt xứ nơi đâu, tội trạng gì, rạch ròi, thậm chí chưa ra tòa mình cũng có thể ước lượng được mức án không sai lệch là mấy vì dù là tòa án thực dân nhưng nó xét xử mình đúng theo luật của nó – Còn bây giờ thì... thua, bằng chứng rõ như ban ngày là trường hợp ông Nguyễn Văn Hải tự là Điếu Cày chấp hành xong bản án 30 tháng tù giam với tội danh mặc định “Trốn thuế”. Kể từ ngày bị bắt giam 19 tháng 4 năm 2008 đến nay thời gian mãn hạn tù đã hết từ lâu, không thấy chồng về, vợ ông, bà Dương Thị Tân làm đơn khiếu nại thì được “pháp luật” trả lời “tạm giam tiếp tục”, nhưng chưa biết tội gì? Tin tức ông Hải bị “cụt hết một tay” cũng không được trả lời phủ nhận hay xác nhận và vợ ông cũng không được phép thăm nuôi chăm sóc chồng. Toạt nghe cứ tưởng chuyện tiếu lâm nói nghe cho vui, nhưng hóa ra nó thật còn hơn 100% .
Gần một thế kỷ sau khi quét sạch thực dân giành lại độc lập, nhân dân VN trong và ngoài nước phải thảng thốt kêu lên: “Pháp Luật của nhà nước Pháp Quyền Cộng Sản XHCN/VN thành viên LHQ là như thế này sao!?” Vậy thì qua vụ việc điển hình của ông Điếu Cày, những ngày gần đây hàng loạt việc bắt giữ (hay bắt cóc) không có lý do hàng chục thanh niên trong các hội đoàn giáo xứ Công Giáo (danh sách tên tuổi đăng trên các trang web lề trái) dù người nhà, gia đình lùng tìm nhưng vẫn biệt vô âm tín khiến dân oan than thở: đây là “Pháp Quyền” hay quyền lực của thầy pháp âm binh?
Quốc Gia Hưng Vong Thất Phu Hữu Trách – Hình như không còn cái nghĩa cao quí thuộc trách nhiệm của mọi người dân như tiền nhân giáo huấn, mà giờ nó thuộc đặc quyền của một đám “vũ phu” theo đóm ăn tàn. Chúng vũ phu với nhân dân yêu nước đồng nghĩa tiếp tay cho mưu đồ bán nước.
Thứ Ba, 6 tháng 9, 2011 by LTSA

America, the Beautiful

ĐIỆP-MỸ-LINH

Trong chuyến du hành nội địa, tình cờ tôi được ngồi cạnh hai thanh
niên. Sau vài câu xã giao tôi được biết người anh tên Mike và người em
tên Jack. Jack có mái tóc vàng như tơ và mái tóc đó được cắt và chải giống
y mái tóc của Justin Bieber – một nghệ sĩ rất trẻ và đầy tài năng của nền
nhạc trẻ Canada. Mike có khuôn mặt tương tự như khuôn mặt của cựu phó
Tổng Thống Hoa-Kỳ, Dan Quayle, và màu mắt của Mike xanh như màu
nước của hồ Diablo.
Tôi không hiểu vì cả hai anh em đều có nụ cười vô tư và nói chuyện
rất lễ phép hay là vì bộ quân phục rằn ri của Mike mà tôi cảm thấy có rất
nhiều thiện cảm với hai cậu thanh niên này. Tôi hỏi hai anh em đi về đâu?
Jack bảo Jack muốn tiễn Mike một đoạn đường. Tôi hỏi tiễn Mike đi đâu?
Jack quay nhìn Mike, dường như Jack không muốn nhắc đến địa danh nào
đó mà Mike sẽ phải đến. Như hiểu ý cậu em, Mike đáp lời tôi: “Tôi đi
Iraq.” Tôi bàng hoàng nhìn Mike. Như nhận ra niềm xúc động trên mặt
tôi, Mike vói tay sang phía tôi, vỗ vỗ trên cánh tay của tôi: “Không sao đâu,
bà đừng lo. Tôi đã tham chiến tại Iraq hai lần rồi, đây là lần thứ ba.” Tôi
muốn nói với Mike nhiều điều nhưng sao tôi cứ nghẹn lại như sắp khóc,
nói không thành lời!
Để nén xúc động, tôi quay mặt ra cửa sổ phi cơ. Chờn vờn trong những
áng mây trắng như bông gòn, tôi tưởng như tôi có thể thấy lại tấm ảnh
và bản tin về sự “trở về” của First Lieutenant Paul Magers! Paul chết khi
chàng chỉ 25 tuổi và mới đến Việt-Nam có hai tuần! Paul biết quê tôi chỉ
có hai tuần nhưng thân xác của Paul thì ở lại đó đến gần bốn mươi năm!
Trong ảnh, nụ cười của Paul cũng rạng rỡ, vô tư như nụ cười của Mike.
Nụ cười đó mà biết hận thù ai! Ánh mắt đó mà muốn bắn giết ai! Bởi vậy
mới có một chiến binh Hoa-Kỳ – James Lenihan – trong trận Thế Giới Đại

Chiến II, đã bắn kẻ thù xong thì gục đầu bên xác kẻ thù mà khóc:
I shot a man yesterday
And much to my surprise,
The strangest thing happened to me
I began to cry.

He was so young, so very young
And Fear was in his eyes.
He had left his home in Germany
And came to Holland to die
……
I knelt beside him
And held his hand
I begged his forgiveness
Did he understand?

It was the War
And he was the enemy
If I hadn’t shot him
He would have shot me.

I saw he was dying
And I called him “Brother”
But he gasped out one word
And that word was “Mother.”…

Đang chìm đắm trong dòng suy tư, tôi choàng tĩnh khi tiếng của trưởng
phi hành đoàn thông báo phi cơ sẽ đáp xuống phi trường trong vài phút.
Khi chia tay tại nơi lãnh hành lý, tôi nắm tay Mike, nói với Mike những
lời biết ơn rất thành thật và sâu xa. Mike cười: “Đó là bổn phận của chúng
tôi.”
Nhìn dáng Mike xa dần tôi cảm nhận được nỗi lo âu, niềm thương cảm
đang dâng lên chất ngất trong hồn tôi. Khung cảnh này và trạng thái tình
cảm này khiến tôi nhớ lại những giờ phút xốn xang, hoang mang, lo sợ của
tôi tại phi trường Frankfurt.
Lý do đưa tôi vào trạng thái tình cảm phức tạp đó khởi nguồn từ một
chuyến du lịch xa…

*

*

*
Vừa rời chiếc xe buýt của công ty du lịch Trafalgar, tôi chú ý ngay đến
một nhóm đàn ông lớn tuổi, người Nga, ngồi bên trái lối đi, cạnh con kinh
đào. Mỗi ông mang một nhạc cụ nhà binh như saxophone, trumpet, clarinet,
v.v. Không hiểu có phải vì nghe những tiếng thầm thì bằng Anh ngữ của
du khách hay không mà bỗng nhiên ban nhạc đều đứng lên, cử hành Quốc
Ca Hoa-Kỳ.
Nhóm du khách và tôi đều dừng bước, ngạc nhiên, vì đây là lãnh thổ
của Nga. Du khách Mỹ để tay phải lên lồng ngực bên trái. Nhìn các nhạc
công, tôi nghĩ, có lẽ họ là những người lính trẻ nhất của trận thế chiến thứ
II. Tôi cảm thấy nao nao buồn. Những người lính già nua, yếu đuối đang
cố kéo chút hơi tàn để tìm sự sống qua bản Quốc Ca của kẻ thù xưa, vì
lương hưu của cựu chiến binh Nga rất thấp!
Bản nhạc dứt. Du khách vui vẻ lấy tiền cho vào cái xắc nhỏ được đặt
trước mặt các nhạc công. Các nhạc công ngồi xuống, đồng tấu tiếp bản
America, the Beautiful. Tôi đứng lặng, lòng đầy xúc động.
Niềm xúc động trong tôi lần này cũng dạc dào như năm 1977, khi đứa
con gái lớn của tôi, Xuân-Nguyệt, lúc đó là học sinh lớp 8, được trao tặng
giải nhất toàn tiểu bang Arizona về bài luận văn “What Makes America
Beautiful?”
Gia đình tôi được giúp phương tiện để đưa Xuân-Nguyệt từ Yuma đến
Phoenix nhận phần thưởng trong một buổi lễ vô cùng long trọng. Ðó là lần
đầu tiên tôi nghe bản America, the Beautiful được cả hội trường đồng ca.
Tự dưng tôi khóc. Nhưng rồi âm điệu và lời ca của bản nhạc khiến lòng tôi
lắng xuống. Tôi trầm tĩnh lại để nhận những vòng tay thân ái và những lời
chúc mừng của những người Mỹ quanh tôi. Theo những lời chúc mừng của
những người chưa quen này, tôi hiểu những người này nghĩ rằng tôi xúc
động vì thành quả của con gái tôi. Ðiều đó chỉ đúng một phần; vì, ngoài sự
hãnh diện của một người Mẹ, những giọt nước mắt của tôi còn mang nặng
niềm âu lo và sự lạc lõng trước một tương lai đầy thử thách mà tôi không
hiểu tôi có thể vượt qua được hay không!
Hơn 26 năm qua, với tất cả hy sinh và nỗ lực, gia đình tôi đã vượt được
nhiều trở ngại. Những đứa con, dâu và rể của tôi hiện đang đem tất cả khả

năng và kiến thức đã học hỏi, đã hấp thụ tại đất nước này để góp công xây
dựng một nơi mà ai cũng hơn một lần ước mơ được nhìn tận mắt sự văn
minh và phồn thịnh.
Riêng tôi, ngoài sự văn minh và phồn thịnh, nước Mỹ còn có những
công dân với trái tim rất vỹ đại.
Chỉ có những trái tim vỹ đại mới có thể thực hiện những chuyến máy
bay đầy thực phẩm, thuốc men cùng những phái đoàn y tế tình nguyện
sang Phi-Châu cứu đói. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới sáng tác và hát say
sưa nhạc bản We Are The World để quyên góp hiện kim gửi sang Phi-Châu
cứu đói. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới đưa nhiều phái đoàn y dược sỹ,
dụng cụ y tế sang Nga cứu giúp khi lò nguyên tử của Nga, tại Chernobyl,
bùng nổ. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới có thể thực hiện những chuyến
bay khẩn cấp để di chuyển hằng mấy trăm em bé mồ côi ra khỏi Việt-Nam
vào cuối tháng Tư năm 1975. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới cứu giúp
hết đợt di dân này đến đợt di dân khác. Trong số triệu triệu di dân đó có gia
đình tôi. Gia đình xin tôi biết ơn:
*- Cựu Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến và bà Michael Z. Smith, người
đã bảo trợ chúng tôi từ Camp Pendleton. Ông bà Smith có ba người con:
Michael, hiện là Ðại-Úy Không Quân Hoa-Kỳ và cô con gái nuôi, người
Nhật, Kristin cùng với bé Heather. Hiện nay ông Smith là một mục sư ở
California.
*- Ông bà Collins. Ông Collins từng tham chiến tại Việt-Nam. Ông
được một gia đình Việt-Nam che chở trong khi Việt-Cộng ruồng bắt. Ông
Collins bảo vì Ông mang ơn người Việt cho nên Ông thương và muốn giúp
đỡ người Việt với tất cả nhiệt tình. May mắn cho chúng tôi, vì chúng tôi là
gia đình Việt-Nam duy nhất tại thành phố Yuma.
*- Ông bà Collard, người đã thật lòng thương yêu gia đình tôi như ruột
thịt. Ông bà thường vui vẻ và hãnh diện giới thiệu với mọi người rằng
chúng tôi là con và cháu của ông bà.
Tôi không hề biết ông Collard là một cựu chiến binh thế chiến thứ II;
vì không bao giờ Ông nhắc nhở hoặc đề cập đến cuộc chiến khốc liệt đó.
Ðến khi Ông Collard qua đời, người bạn đồng ngũ của Ông đọc điếu văn,
tôi mới biết ông Collard có mặt trong trận Trân-Châu-Cảng. Chính ông

Collard đã cứu giúp nhiều người, kể cả người đang đọc điếu văn, rời khỏi
chiến hạm... và Ông là người sau cùng.
Sự hiểu biết của tôi về quân nhân Hoa-Kỳ trong trận Trân-Châu-Cảng
hoặc Normandy chỉ căn cứ theo sách vở và phim ảnh nên rất mơ hồ, rất
hạn hẹp. Nhưng sự hiểu biết của tôi về sự hy sinh và lòng quả cảm của
người lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt-Nam thì khá tường tận - tường
tận hơn cả những cuốn sách viết về chiến tranh Việt-Nam mà tác giả chưa
bao giờ có mặt tại chiến trường Việt-Nam. Do đó, tôi nhận thấy, dù cuộc
chiến kết thúc một cách tức tưởi, thiếu công bằng, nhưng cũng phải chấm
dứt; vì máu của người Việt - cả hai miền Nam Bắc - và máu của người Mỹ
đã chan hòa trong từng thước đất nơi quê hương nghèo khó của tôi.
Sau khi miền Nam bị bức tử, hạm đội Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa
đã di tản cả trăm ngàn người Việt thoát khỏi hiểm họa Cộng-sản. Nhưng
nếu không có sự hiện diện của Ðệ-Thất Hạm-Ðội Hoa-Kỳ tại Thái-Bình-
Dương cũng như không có sự giúp đỡ vô điều kiện của nhân dân Hoa-Kỳ
thì số người tỵ nạn khổng lồ của chúng tôi sẽ về đâu?
Nương vào lòng nhân ái của người Mỹ, chúng tôi vào Mỹ với thái độ
biết ơn và lòng tự tin để vươn lên.
Người Việt, qua bao thử thách cam go, đã vươn lên, đã góp công xây
đắp và bảo vệ đất nước này.
Khi cuộc chiến Trung-Ðông bùng nổ, năm 1992, tôi đã đau buồn và
lo sợ khi đưa tiễn một độc giả trẻ và thân thiết nhất của tôi, Hải-Quân
Ðại-Úy Hoàng-Quốc-Tuấn, tòng sự trên hàng không mẫu hạm USS
Independence, ra khơi, tiến về vùng lửa đạn của Persian Gulf. Trong lá thư
gửi về từ vùng Vịnh, Tuấn viết: “... Người lính Hoa-Kỳ được huấn luyện
để bảo vệ Hòa-Bình chứ không phải để gây chiến ...” Theo tinh thần cao cả
đó, biết bao thanh niên nam nữ Vietnamese-American đã tốt nghiệp hoặc
đang thụ huấn tại các quân trường lừng danh của Hoa-Kỳ như West Point
Academy, Naval Academy, Air Force Academy, v. v...
Ngoài những tham gia đáng kể về quân sự, giới trẻ Việt-Nam cũng đã
và đang xây đắp đất nước này trong tất cả mọi lãnh vực như truyền thông,
giáo dục, y tế, khoa học, khoa học không gian, v. v.
Giới trẻ Việt-Nam có những đóng góp lớn lao như vậy thì những nỗ lực

của thế hệ di dân Việt-Nam đầu tiên cũng không nhỏ. Thử nhìn bản đồ của
các thành phố lớn như Los Angeles, San José, Houston, v. v... thì sẽ thấy:
Từ những vùng đất hoang tàn cách nay 20 năm, bây giờ đã trở thành những
vùng thương mại sầm uất do người Việt khai thác. Và trong các hãng,
xưởng, văn phòng, biết bao người mang họ Nguyễn, Lê, Trần ...
Khi những đóng góp của người Việt vào đất nước này mỗi ngày mỗi
thăng tiến thì bỗng dưng sự phá hoại từ đâu ùa đến, phủ chụp xuống ngay
lòng đất nước mà gia đình tôi đã âm thầm nhận là quê hương thứ hai.
Tin Nữu-Ước và Hoa-Thịnh-Ðốn bị máy bay tấn công đến với tôi trong
lúc tôi cùng nhóm du khách dùng cơm trưa sau những giờ thăm viếng thành
phố Minks. Tôi ngồi bất động, lòng đầy phẫn uất. Nếu bảo rằng tôi không
lo sợ thì không hẳn đúng; nhưng niềm lo sợ trong tôi bây giờ khác hẳn
với sự hãi sợ của đứa bé gái, giữa thập niên 40, theo Cha Mẹ tản cư và
thấy những chiếc máy bay mang cờ tam tài (cờ Pháp) bắn phá những làng
mạc xác xơ. Những chiếc máy bay đó bắn vào tất cả những vật thể nào
di động; vì vậy nông dân không giám ra đồng, súc vật bị giết hại, sinh sản
không kịp và con người thì đói và thiếu thốn mọi bề.
Hơn hai mươi năm sống yên lành tại miền Nam nước Việt và hơn hai
mươi năm sống thanh bình trên đất Mỹ, tôi cứ ngỡ rằng bom đạn đã xa
tôi, không còn cơ hội làm tôi sợ hãi nữa. Nhưng không! Trên màn ảnh TV,
một tòa nhà của The World Trade Center bốc khói và một chiếc máy bay
lao thẳng vào tòa nhà thứ hai. Cả hai tòa nhà lần lượt sụp xuống trong khi
niềm phẫn uất trong tôi dâng cao như những cuộn khói đen ngòm thoát
ra từ The Twin Towers. Tình cảm trong tôi chẳng khác gì nỗi đau xót của
tôi cách nay hơn một phần tư thế kỷ, khi Việt-Cộng pháo kích ồ ạc vào
Saigon.
Là một phụ nữ được giáo dục chỉ để nuôi con và phục tòng chồng, ngày
đó, trước thảm trạng của quê hương Việt-Nam, tôi chỉ biết viết những
dòng ca ngợi tinh thần chiến đấu can cường của Người Lính Việt-Nam
Cộng-Hòa và tôn vinh lòng hy sinh vô bờ của những người Mẹ, người vợ
và người con.
Bây giờ, trước sự đổ nát và thiệt hại nhân mạng một cách phi lý và tàn
bạo tại Nữu-Ước và Hoa-Thịnh-Ðốn, tâm hồn tôi bị chấn động mạnh và

tôi muốn viết ra những ý nghĩ thầm kín của tôi về một nơi chốn mà gia
đình tôi âm thầm thọ ơn. Ý nghĩ này làm cho cuộc du lịch giảm thiểu nhiều
phần thích thú. Cuộc du lịch này chỉ vì sự tò mò của tôi, muốn tìm hiểu về
một nước Nga rộng lớn.
Nước Nga rộng lớn nhưng môi người Nga không đàn hồi cho nên người
Nga không biết cười. Thức ăn của người Nga thường là những miếng thịt
dai dừ, mà không ai đoán được và cũng không ghi trong thực đơn là thịt
gì, được tẩm trứng hoặc bột rồi chiên, không mùi vị, ăn đệm với khoai
tây. Lâu lắm, may ra mới có một bữa thịt gà. Thức ăn của Mỹ như các loại
kẹo, ice cream và sản phẩm của hãng Coca Cola được bày bán khắp nơi.
Tôi cũng thấy vài nhà hàng McDonald’s và Pizza Hut. Sản phẩm tiểu công
nghệ của Nga như thủy tinh và đồ gỗ thì tuyệt đẹp, vì được làm bằng tay.
Hệ thống Metro của Nga tại Moscow rất tối tân, dù đã được hoàn tất cách
nay nửa thế kỷ. Cứ 30 giây, (vâng, 30 giây) thì một chuyến tốc hành đến
và một chuyến đi ngược lộ trình với chiếc kia. Trong sinh hoạt hằng ngày,
người Nga không ăn mặc giản dị, xềnh xoàng như người Mỹ. Những buổi
trình diễn ballet, skate on ice làm tôi say mê bao nhiêu thì những màn vũ
dân tộc và những bản dân ca cũng khiến hồn tôi giao động bấy nhiêu. Âm
hưởng dân ca của Nga mang nặng niềm thống thiết của dân du mục.
Dân Nga rất kiêu hãnh về Red Square, vì đó là biểu tượng của thủ đô.
Khi thấy trong hình và phim ảnh, tôi cũng nghĩ Red Square rất vỹ đại.
Nhưng sau khi thấy tận mắt, tôi nghĩ, không phải vì định kiến chính trị,
Red Square không là gì cả, vì thiếu sự hài hòa giữa thiên nhiên và nhân tạo.
Khu vực Red Square được lát bằng gạch, trên triền đồi thoai thoải, diện
tích khoảng một phần ba của công trường Thiên-An-Môn. Phần cao nhất
của Red Square là tòa nhà của chính phủ và mộ của Lenin. Chân đồi bên
này là ngôi nhà thờ với những chóp cao hình tròn, chạm trổ và sơn phết rất
rực rỡ. Chân đồi bên kia chỉ là một lối đi rộng lớn. Lối đi này, vào những
dịp diễn hành để phô trương lực lượng, được Hồng Quân Nga cũng như
thiết giáp và các cơ giới nặng dùng làm lối ra. Bây giờ, trên lối ra này,
người ta xây một ngôi nhà trên cao, phía dưới để trống vừa đủ cho bộ hành
và xe hơi nhỏ ra vào. Lối vào Red Square, phía nhà thờ, cũng được chận lại
bằng nhiều dãy trụ xi-măng, với mục đích không cho thiết giáp và cơ giới

nặng vào điện Cẩm-Linh.
Trước điện Cẩm-Linh, ban đêm, trong khi những cặp tình nhân thủ
thỉ bên nhau những lời mặn nồng thì những người Nga lớn tuổi lại chậm
bước, lòng hướng về một thủ đô đã đổi tên: St. Petersburg.
St. Petersburg là một thành phố mang nặng di tích lịch sử của Nga-
Hoàng. St. Petersburg không chinh phục được cảm tình của tôi nếu không
có ngôi nhà thờ cổ còn hằn vết đạn của thời Hitler xâm lược và những
bức tranh đầy sinh động của Ivan Aivazovsky, Wassily Kandinsky, Pavel
Filonov, v. v... Những dòng sông ở St. Petersburg đã để lại trong hồn tôi rất
nhiều lưu luyến. Những dòng sông im lìm, nhẫn nhục, chỉ biết len lõi trong
từng ngõ ngách của thành phố trước sự kiêu căng thách đố âm thầm nhưng
lố bịch của từng dãy lâu đài nguy nga. Lúc xuôi theo giòng Neva, trong
khi mọi người lưu ý đến mấy chiếc cầu dựng đứng, vào những giờ nhất
định, để tàu thủy có thể đi qua, thì tôi chỉ nghĩ đến những gì tôi đã thấy trên
đoạn đường sau khi vào biên giới Nga.
Trên đoạn đường loang lở đó tôi đã thấy những xóm nhà lụp xụp. Thỉnh
thoảng tôi mới thấy một chiếc xe hơi cũ thật cũ đậu dưới tàng cây, không
biết xe còn xử dụng được hay không. Nơi khoảng sân hẹp, mỗi nhà thường
cất một cái chòi nhỏ, mái và chung quanh được bọc ny-lông, để trồng hoa
màu. Tôi cũng thấy người dân quê canh tác bằng tay chứ không bằng máy.
Những hình ảnh nghèo khó này cứ theo tôi mãi. Nhưng khi đến Minsk,
mọi hình ảnh đều bị đẩy lùi về quá khứ, chỉ còn trong tôi nỗi xót xa của
một người vừa biết nơi mình nương náu hơn hai mươi năm qua đang bị
xâm phạm nặng nề! Từ Minsk đến Riga, tôi thấy các thành phố đều treo
cờ rũ và mọi người dân địa phương có vẻ sốt ruột, dán mắt vào TV hoặc
ngóng tin tức từng giờ. Ðiều làm cho tôi xúc động nhất là hôm 14-09, lúc
12 giờ trưa, tại khách sạn Scandic thuộc thành phố Helsinki của nước
Finland, ban giám đốc đã yêu cầu mọi người đứng nghiêm, dành năm phút
mặc niệm để tưởng nhớ những nạn nhân của khủng bố tại Hoa-Kỳ.
Trong khi đứng nghiêm tôi vẫn bị những lời tường trình của xướng
ngôn viên đài truyền hình CNN, từ chiếc TV lớn treo nơi góc phòng khánh
tiết, chi phối. Tôi đau đớn, xốn xang trong lòng như ngày xưa, năm 1968,
hay tin Việt-Cộng tấn công và cưỡng chiếm thành phố Huế, quê Ngoại của

tôi.
Sau khi Huế được quân lực Việt-Mỹ giải tỏa, tôi nôn nóng muốn trở
về để nhìn sự tan thương và đổ nát của quê Ngoại. Bây giờ, tại phi trường
Helsinki đợi máy bay để sang Frankfurt, tôi cũng nôn nóng muốn trở về
một nơi mà tôi gọi là nhà – Home. Nhưng bà nhân viên hãng hàng không
Lufthansa, sau khi nhìn vé máy bay và thấy rõ ràng tôi không phải là một
người da trắng, tóc màu, đã khẳng định:
- Bà có vé. Tôi sẽ ghi tên bà vào danh sách, nhưng sẽ không có chỗ cho
bà. Bà phải chờ, vì đây là chuyến phản lực 747 đầu tiên từ Ðức vào lục địa
Hoa-Kỳ.
- Vé của tôi mua từ lâu, tại sao bây giờ tôi phải chờ? Và chờ đến bao
giờ?
- Rất tiếc, tôi không biết bà phải chờ đến bao giờ. Khi nào có chỗ chúng
tôi sẽ thông báo cho bà. Hiện tại, chúng tôi có rất nhiều hành khách ứ đọng
từ mấy ngày qua. Và chuyến bay này, từ Helsinki đến Frankfurt để về
Nữu-Ứớc, chỉ dành ưu tiên ...
Không đủ kiên nhẫn chờ bà ấy nói hết câu, tôi cắt ngang:
- Tại sao tôi mới rời nhà chỉ có hai tuần mà nay tôi không thể trở về,
hả?
Bà ấy ngạc nhiên, nhìn tôi, gằn giọng:
- Nhà?
Tôi đáp với giọng nghèn nghẹn như sắp khóc:
- Vâng. Nhà của tôi.
- Cho tôi xem thẻ thông hành.
Chỉ nhìn thoáng qua Passport, bà ấy thay đổi thái độ ngay:
- Vâng. Bà là công dân Mỹ. Bà ưu tiên đi chuyến bay này.
Tôi cúi xuống xách hành lý, lòng âm thầm tạ ơn nước Mỹ, nơi đã cho
tôi hiểu thế nào là giá trị thực tiễn của tự do, dân chủ và công bằng. Và trên
tất cả mọi điều, nước Mỹ đã cho tôi cơ hội thể hiện tinh thần tự lập của
một phụ nữ./.

ĐIỆP-MỸ-LINH

LOVE
AND APPRECIATION
FOR AMERICA

WITH

ĐIỆP-MỸ-LINH

Translation by Merle L. Pribbenow

(While vacationing in Russia, Điệp-Mỹ-Linh, a member of Ngay Nay’s
editorial staff, watched the television in horror as the terrorist attack on
America unfolded and hijacked commercial aircraft crashed into the World
Trade Center towers in New York and the Pentagon in Washington, D.C.
This short article was written at the airport in Frankfurt, Germany, while
the author was waiting for a connecting flight home to the United States.)

As I stepped out of the Trafalgar Tour Company’s bus, I immediately
noticed a group of old Russian men sitting on the left side of the
entranceway, next to a small canal. Each man was carrying a military
musical instrument – saxophone, trumpet, clarinet, etc. I didn’t know
whether or not they had heard the tourists speaking in English, but suddenly

this little band stood up and began playing the American national anthem.
The entire tour group stopped in surprise, because we were in Russia.
The American tourists among us placed our right hands over our hearts.
Looking at the band as they played, I thought to myself that they might
have been very young soldiers who fought in the Second World War. I was
touched with sadness as I watched these old, weak soldiers trying to use
their failing breath to make a living by playing the national anthem of their
former enemy, because a Russian veteran’s pension is very small.
The music ended. The tourists smilingly dropped money into a small
bag placed in front of the musicians. The musicians sat down and began
playing “America, the Beautiful.” I stood still, extremely moved.
The emotions I was feeling were similar to those that I felt in 1977,
when my oldest daughter, Xuan-Nguyet, then in the 8th Grade, won first
prize in the entire state of Arizona for her essay, entitled “What Makes
America Beautiful?” My family was assisted with transportation to take
Xuan Nguyet from Yuma to Phoenix to receive the award in a wonderful
and solemn ceremony. That was the first time I heard the song “America,
the Beautiful” as the entire audience joined in singing. I suddenly realized
that I was crying. But then the rhythm and the words of the song calmed my
emotions. I regained my composure as I accepted hugs and congratulations
from the Americans standing near me. From the congratulations spoken by
these people whom I had never met before, I realized that they thought I was
crying tears of joy for my daughter’s success. That was true only in part,
because, in addition to a mother’s pride, my tears also reflected my worry
and homesickness as I faced future challenges that I did not know if I could
overcome.
After more than 26 years and after great sacrifices and efforts, my family
has overcome many difficulties. My children and their spouses are now
devoting the abilities and the knowledge they have gained in this nation
to contribute to building a prosperous, educated, and cultured land. As
for myself, in addition to culture and prosperity, I see that the American
people had truly enormous hearts. Only such good, great hearts would have
sent planeloads of medicine and volunteer medical personnel to save the
starving people of Africa. Only such great hearts would have written and
sung a song like “We Are the World” to raise money to send to Africa to
stop starvation. Only great hearts would have sent doctors, pharmacists, and
medical supplies to Russia to help when the Russian reactor at Chernobyl
exploded. Only great hearts would have sent emergency flights to evacuate
orphans from Vietnam in April 1975. Only great hearts would have helped
wave after wave of refugees coming to this country. Among those millions

of refugees were the members of my family. My family is truly grateful to:
*-Retired Marine Corps Major Michael Z. Smith and his wife, who
sponsored us out of the Camp Pendelton refugee camp. Mr. and Mrs. Smith
have three children: Michael, currently a captain in the U.S. Air Force;
Kristin, whom they adopted from Japan; and the youngest girl, Heather. Mr.
Smith is currently a pastor in California.
*-Mr. and Mrs. Collins: Mr. Collins was a Vietnam veteran. A
Vietnamese family hid and supported him when the ..... were hunting for
him. Mr. Collins told us he owed a debt to the Vietnamese people, so he
loved them and wanted to help them with all his heart. This was fortunate for
us, because we were the only Vietnamese family in the city of Yuma.
*-Mr. and Mrs. Collard, who loved my family like their own. They
always happily and proudly introduced us to everyone as their own children
and grandchildren. I was not aware that Mr. Collard had been a veteran of
World War II, because he never once mentioned that terrible war. Only
when Mr. Collard died and a shipmate of his gave the eulogy at his funeral
did I learn that he had been at Pearl Harbor during the Japanese attack.
Mr. Collard had saved many lives, including that of the man who gave the
eulogy, and had been the last man to leave his ship.
My knowledge about U.S. servicemen at Pearl Harbor, Normandy, and
other such battles is very limited, because it is based only on books and
movies. However, my knowledge of the sacrifices and courage of U.S.
soldiers during the Vietnam is rather vast – much better than that of authors
who never saw the war in Vietnam. I believe that, even though the war
ended precipitously and unfairly, it had to come to an end, because so much
Vietnamese blood, from both North and South Vietnam, and American
blood had been shed that it permeated every inch of the ground of my
poverty-stricken country.
After South Vietnam expired, the South Vietnamese Navy evacuated
more than 100,000 Vietnamese, rescuing them from the horrors of
communism. If, however, it had not been for the presence of the U.S. 7th
Fleet in the Pacific, and if we had not received the unconditional support
and assistance of the American people, where would this massive flood of
refugees have gone? Thanks to the humanity of the American people, we
entered the United States with a spirit of gratitude and confidence that we
could recover and rebuild our lives. After untold difficulties and challenges,
the Vietnamese have recovered and have contributred to the building and the
defense of this nation.
When the Gulf War broke out, I was worried and frightened when I said
goodbye to one of my youngest and most beloved readers, Navy Lieutenant

Hoang-Quoc-Tuan, who was serving aboard the aircraft carrier U.S.S.
Independence and sailing off to the battlefront in the Persian Gulf. In a letter
he sent me from the Gulf, Tuan wrote, “…American servicemen are trained
to defend the United States, not to start wars.” Countless Vietnamese-
American young men and women who shared that wonderful spirit have
graduated or are now studying at famous U.S. military academies, like West
Point, the Naval Academy, the Air Force Academy, etc.
In addition to their significant participation in military service,
Vietnamese young people have contributed and continue to build this nation
in every area and facet of society, including the media, education, medicine,
science, space science, etc.
While Vietnamese young people have made such enormous
contributions, the efforts of the first generation of refugees are no less
significant. If one looks at large cities such as Los Angeles, San Jose,
Houston, etc., one will notice that areas that twenty years ago were open
land are now bustling business areas owned and operated by Vietnamese,
and if one looks at the rosters of employees of companies, factories, and
offices throughout the country, one will see countless people with last names
of Nguyen, Le, and Tran.
As contributions to this country by Vietnamese continue to grow,
suddenly sabotage and terror struck right in the heart of the nation that
my family had now taken as our second homeland. The news about the
attacks on New York and Washington using hijacked airliners arrived as
I was eating lunch with a group of tourists after hours of sightseeing. I sat
motionless; my heart filled with rage. Not that I was not afraid, but the fear
and worry I felt was completely different than the terror of a young girl who
had to flee home with her parents as they saw strange aircrafts with tricolor
markings [French aircrafts] bombing and strafing their poor village. The
aircrafts attacked anything that moved, so the people were afraid to go out
to work on the fields. The livestock were slaughtered, leaving the people to
starve and to lack even the most basic necessities of life.
After living for twenty-five quiet years in South Vietnam and more
than twenty years of peace in America, I thought I had nothing to fear from
bombs and shells anymore. But no! On the TV screen, one tower of the
World Trade Center belched smoke as another airplane flew straight into the
second tower. Both towers collapsed, and the anger in me grew apace with
the black columns of smoke rising from the wreckage of the Twin Towers.
The pain I felt was exactly the same as what I felt a quarter of a century
before, when the Việt-Cộng shelled Saigon. As a woman whose education
had been aimed solely at raising children and serving my husband, all I

could do after I viewed the tragedy that faced my native land of Vietnam
was to write – write to praise the courage of the soldiers of the Republic
of Vietnam and to honor the indescribable sacrifice of their mothers, their
wives, and their children, because whenever a soldier fell the hearts and the
lives of those close to him were crushed as well.
Now, as I saw the senseless and brutal carnage and loss of life in New
York and Washington D.C., my soul was touched and I wanted to write
out my private thoughts about the place that had given us a home and to
which my family is still so grateful. Those thoughts took away most of my
enjoyment of the tour, which I had only taken out of curiosity and the desire
to understand the vast country of Russia.
Russia is a vast nation, but Russian lips are tight and they do not know
how to smile and laugh. Russian food usually consists of tough, tasteless
pieces of meat of unknown origin (even the menu does not say what kind
of meat it is) that is fried with eggs or flour and eaten with potatoes. Every
once in a while they will serve chicken. American foods, such as candy, ice
cream, and different soft drinks made by the Coca Cola Company, are sold
everywhere. I saw a few McDonald’s and Pizza Hut restaurants. Russian
handicrafts, such as glassware and wood products, are extremely beautiful,
because they are all hand-made. The Russian “Metro” subway system is
very modern, even though it was built a half century ago. Every 30 seconds
(and I emphasize that this is seconds, not minutes), a high-speed train arrives
and another passes going the other direction. In their daily activities and
work Russians, unlike Americans, do not dress in casual attire. While I was
enthralled with the ballet and the ice skating performance, the Russian folk
dances and folksongs touched my soul. The music of Russian folk songs
reflects the sad, mournful fate of the nomadic peoples of the steppes.
Russians are very proud of Red Square, because it is the symbol of the
capital. When I saw the square in photographs and in movies, I thought it
must be magnificent, but after seeing it with my own eyes, I decided, and
not because of any political prejudice, that Red Square was not as grand,
because it failed to blend the natural and the man-made together. Red Square
is paved in red bricks and is located on a gently sloping hill. The entire
square covers an area only about one third the size of Tienanmen Square
in Beijing. The highest points in this area are the government house and
Lenin’s tomb. A cathedral with gaudily painted onion-shaped towers lies
at one side of the base of the hill. The other side is just a large roadway.
During parades to display its military might, Russia’s Red Army troops,
tanks, and vehicles used this roadway as an exit. Now a high building has
been erected there with an open roadway through the ground level to allow

pedestrians and small cars to pass through. At the entrance to the other end
of Red Square, the cathedral side, many cement barriers have been erected
to prevent tanks and heavy vehicles from entering the Kremlin. At night
in front of the Kremlin, while young lovers whisper sweet nothings in each
other’s ears, older Russians walk with halting steps, their thoughts turned
toward a capital whose name has been changed to St Petersburg.
St. Petersburg is a city steeped in the history of the Russian Czars. St.
Petersburg did not win my heart with its old cathedral, still bearing the scars
of the bombs and shells of the Hitler era, or with its colorful paintings by
Ivan Aivazovsky, Wassily Kandinsky, and Pavel Filonov, but I formed a
deep affection for the rivers of St. Petersburg. The quiet, peaceful waters that
stretch through every part of the city are challenged at every turn by proud,
quiet, and strangely magnificent palaces. Sailing down the Neva River,
while everyone else was watching the drawbridges being raised to let ships
pass through, I could only think about the things I had seen along the road
after crossing the Russian border.
Along a stretch of rough road I had seen small clusters made up of
rundown huts and shacks. Once in a while an ancient automobile could be
seen parked under a tree, but I could not tell if the car was still usable or just
a piece of junk. In the narrow yards, each house had put up a small shed,
with a roof and walls covered with plastic sheets, to grow vegetables. I saw
that the rural people farmed by hand rather than using machinery.
These scenes of poverty stayed in my mind constantly, but when we got
to Minsk, all these images were thrust into the past, and all I felt was the
inner pain of someone who had just learned that the place where she had
lived for more than twenty years had just suffered a serious attack! From
Minsk to Riga, I noticed that all the flags in the cities were flying at half-
mast, and all the local people appeared to be worried, constantly watching
their televisions or anxiously waiting for the hourly news.
The event that moved me the most deeply happened at noon on
September 14 at the Scandic Hotel in Helskinki, Finland, when the hotel
management asked everyone to stand still for five minutes of silence to
commemorate the tragedy. While I stood there in silence, the reports by the
CNN commentator from the television on the wall of the conference hall
filled my thoughts. I felt the same pain in my heart that I felt in 1968, when
I learned that the Việt-Cộng had attacked and captured the city of Hue, the
home of my maternal grandparents.
After American and South Vietnamese forces regained control of Hue, I
was anxious to return to see the destruction that had touched the home of my
relatives. Now, at the Helsinki airport as I waited for a flight to Frankfurt, I

was also anxious to return to a place I now called home.
After looking at my ticket and seeing that I was not a Caucasian, the
Lufthansa employee told me,
“You have a ticket. I will put your name on the list, but you will not get a
seat. You will have to wait, because this is the first 747 flight from Germany
to the United States.”
“I bought my ticket a long time ago. Why do I have to wait? And how
long will I have to wait?”
“I am very sorry, but I do not know how long you will have to wait.
Whenever we have a seat, we will notify you. Right now we have a huge
backup of passengers because there have been no flights for several days.
And this flight, from Helsinki to Frankfurt and on to New York, is reserved
only for...”
Too impatient to let her finish the sentence, I interrupted,
“I left home just two weeks ago. Can you tell me why I can’t return
now?”
The woman looked at me in surprise.
“Home?” she asked.
I replied, my voice shaking as if I was about to cry,
“Yes, it’s my home.”
“Let me see your passport.”
After glancing at my passport, her entire demeanor changed.
“Yes, you are an American citizen. You will receive priority boarding on
this flight.”
I bent down to pick up my luggage, silently saying a prayer of gratitude
to the United States, the place that had taught me the true value of freedom,
democracy, and justice, and where, in every respect, America had given me
the opportunity to demonstrate my independence as a woman./.

ĐIỆP-MỸ-LINH

Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2011 by LTSA

SAIGON.-Nhậu ngà ngà say, hai thanh niên chặn đầu xe máy của người dân đi trên đường Bạch Đằng thuộc quận Bình Thạnh để trấn lột 100.000 đồng rồi giật luôn ví tiền. Nghe tiếng truy hô của nạn nhân, cảnh sát đặc nhiệm phóng xe đuổi theo. Tên cướp bị cảnh sát đặc nhiệm quận Bình Thạnh truy đuổi là Đinh Mạnh Hùng mới 19 tuổi nhảy xuống cầu Bùi Hữu Nghĩa, nhưng không biết bơi nên chết đuối. Đồng bọn bị bắt Nguyễn Huệ Hưng 18 tuổi đang bị giam tại công an quận. Theo điều tra của công an Bình Thạnh, thì hai thiếu niên Đinh Mạnh Hùng và Nguyễn Huệ Hưng nhậu say chạy xe gắn máy trên đường Bạch Đằng Bình Thạnh.

Cả hai chặn đầu xe máy anh Hải cư dân Bình Thạnh dùng áp lực trấn lột 100,000 đồng. Thấy hai thanh niên hung hăng, anh Hải móc ví rút ra tờ 100.000 đồng đưa cho chúng. Thấy anh Hải nhiều tiền, Hùng và Hưng nổi máu tham nên giật luôn chiếc ví. Vét sạch tiền, cả hai ném lại cái ví cho anh Hải và lên xe phóng đi. Cuối cùng thì cả hai, một chết đuối và một bị công an bắt kết thúc cho một thảm kịch. Tội phạm cướp của, giết người, trấn lột, cướp đoạt tài sản, đâm thuê chém mướn mà những nghi can hầu hêt là những thiếu niên đã trở thành những hình ảnh đáng ngại và đáng sợ ở Saigon hiện nay



Nguồn: SBTN